Cuộc Đời và Số Mệnh
Nguyễn Phúc Vĩnh Tung
BÀI 1:
ĐỜI NGƯỜI MƯỜI
HAI BẾN NƯỚC
THÂN CƯ BẾN NÀO?
Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi,
Phong Thủy và Tướng Mệnh thì hầu hết người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó
là những khoa học huyền bí rất có giá trị của người Trung Hoa từ hơn bốn ngàn
năm về trước. Nói là có giá trị vì những khoa học này tuy gọi là huyền bí nhưng
lại rất sát thực với cuộc sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong
những sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta khi đang
sống trên đời biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà chúng
ta đang ở, cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta buông tay
từ giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn thu. Quan niệm
này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây không phải cho chính bản thân chúng
ta nữa mà cho con cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi còn tại vị,
ngài đã đíùch thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy, những triều vua
về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại thêm lịch sử đã có
nhiều biến chuyển, nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn 150 năm. Khoa Tướng
Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn đề dùng người, kết bạn hoặc
trong những việc giao dịch hằng ngày rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt tay nhau,
đối diện nhau trong vài giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu chuyện mà có
thể tránh được cái ân hận “lầm người” như chúng ta thường thấy. Còn thâm sâu
hơn, như khoa Tử Vi Đẩu Số cũng giúp cho chúng ta biết mình, biết người một cách
tường tận từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả một đời người...
Những khoa học huyền bí nêu trên tuy có đối tượng khác nhau, nhưng mục đích
giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là
nhà, là cơ sở làm ăn, lúc chết là mộ phần, còn đối tượng của khoa Tử Vi Đẩu Số
là con người, và cuộc đời của chúng ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Còn
điểm tương đồng là những lãnh vực mà các khoa này diễn đạt và chi phối trong
cuộc sống hằng ngày của một đời người. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy chia căn nhà
của chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là biểu tượng một lãnh vực trong đời sống
hằng ngày của chúng ta, đó là các cung Quan Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo,
cung Tài Lộc, cung Địa Vị, cung Tình Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi
cung là mỗi hướng của căn nhà. Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người qua 12 cung,
cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Phúc Đức, cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô
Bộc, cung Thiên Di, cung Tật Ách, cung Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và
cung Huynh Đệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là
khoa nặng về thiên mệnh hơn cả. Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ
thấy rằng, một người sinh ra đời vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì cuộc đời
của người này đã được an bài từ giây phút đó.
Bởi vậy, chúng ta có thể nói,
đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào thì cuộc đời của mình sẽ có sắc
thái của bến mà thuyền đời mình đã buông neo.
Khi nói khoa Tử Vi chia cuộc
sống của một người thành 12 lãnh vực là chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh
vực này thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử Vi
diễn đạt điều này bằng cung thứ mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có một
vị trí nhất định trong Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị trí
của cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung Thân chỉ đóng vào 1
trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc,
cung Thiên Di và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh quan hợp
lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi phối bởi số
mệnh của mình (Thân cư Mệnh hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung), khi ra đời thì
bị chi phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh sự nghiệp (Thân cư Quan
Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân cư Phu Thê) và bởi phúc đức của
chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng của ông bà cha mẹ (Thân cư Phúc Đức), chứ
không bị chi phối bởi con cái (Tử Tức), anh chị em (Huynh Đệ) hoặc bạn bè hay
người ăn người làm của mình (Nô Bộc)...
Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng,
trong 13 cung của một lá số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan trọng
nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người đó và nhấn mạnh giai
đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận, tức là từ lúc sinh ra cho đến đoạn
đời trong khoảng 30 đến 36 tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn lại
hay còn gọi là hậu vận.
Bởi sự quan trọng của cung Thân như vậy, cho nên một
nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung nào thì cung đó sẽ là lãnh
vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người đó”. Như chúng ta đã nói ở
trên, Thân chỉ ở vào 1 trong 6 cung chính và Thân an theo giờ sinh, cho nên
những người sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ thì Thân đóng ở cung Mệnh, gọi là Thân
cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, những người sinh vào giờ Sửu hay giờ Mùi thì
Thân cư Phúc Đức, những người sinh vào giờ Dần hay giờ Thân thì Thân cư Quan
Lộc, những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì Thân cư Thiên Di, những người
sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc và những người sinh vào giờ
Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê.
Từ ý nghĩa căn bản đó của khoa Tử Vi, khi
biết một người sinh vào giờ nào, chúng ta có thể phác họa được một nét tổng quát
về cuộc đời của người này sẽ như thế nào, và đó chính là một trong những sự kỳ
diệu của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những khoa học huyền bí của người Trung
Hoa đã có từ hơn bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng ta sẽ nói về những nét đặc
điểm và ý nghĩa về cuộc đời của những người có số Thân cư Mệnh, hay còn gọi là
mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung, tức là những người sinh vào giờ Tí, giờ theo đồng
hồ là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh vào giờ Ngọ, từ 11 giờ
sáng đến 1 giờ chiều.
MẪU NGƯỜI “THÂN CƯ THIÊN DI”
Nằm ở vị trí đối diện với
cung Mệnh trên lá số, cho nên cung Thiên Di có một tầm quan trọng không kém gì
cung Mệnh. Có thể nói cung Thiên Di là cái bóng của cung Mệnh trong nhiều ý
nghĩa. Cung Thiên Di xung chiếu với cung Mệnh, cho nên những gì xấu tốt của cung
này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài Lộc, tức
hai cung có vị trí hợp chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này đối
với những người Mệnh Vô Chính Diệu, tức là cung Mệnh không có chính tinh tọa
thủ, cho nên phải mượn chính tinh của cung Thiên Di mà nói lên ý nghĩa của cung
Mệnh.
Đầu tiên, hai chữ Thiên Di không phải chỉ nói lên ý nghĩa của sự dời
đổi hay di chuyển, mà cung Thiên Di còn nói lên cái lãnh vực hay địa bàn sinh
hoạt của mỗi người ngoài đời, ngoài xã hội. Nói một cách khác, nếu cung Mệnh
biểu hiệu con người của mình khi sinh ra đời, thì cung Thiên Di biểu hiệu con
người của mình, vị trí của mình ngoài xã hội nói chung, và trong môi trường sinh
hoạt hằng ngày của mình nói riêng.
Cung Thiên Di còn nói lên nhiều nét đặc
biệt khác như nghề nghiệp, sự giao thiệp, khuynh hướng tôn giáo, sống hay làm ăn
xa ở nơi quê người, chết tha phương hay chết trên quê hương của mình, ra đời
được người thương mến hay không, chẳng hạn những người có số Hoa Cái cư Thiên Di
là những người ra ngoài thường được nhiều người thương mến, hay ngoài đời thường
có được người giúp đỡ hay không, như những người số có cung Thiên Di giáp Tả
Hữu, giáp Nhật Nguyệt hay giáp Quang Quý là số mà người ta thường nói là được
quý nhân phò trợ, hay những người thân phải tự lập thân, suốt đời chỉ là kẻ độc
hành, cũng vì hai sao Cô Quả đóng ở Thiên Di, hoặc số ra đời là được tiền hô hậu
ủng, cũng là vì cung Thiên Di được cách tiền Cái, hậu Mã vậy.
Và một lần nữa,
chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên một lá số của khoa Tử Vi rất có ý nghĩa:
cung Thiên Di tam hợp với hai cung Phúc Đức và Phu Thê, cho nên, sự may mắn hay
bất hạnh, sự thành công hay thất bại của mỗi người ở ngoài đời đều một phần nào
do phước đức của dòng họ cũng như của chính mình tạo nên, và sự hỗ trợ của người
bạn đời, là người chồng hay người vợ,ï từ đằng sau hay bên cạnh mình là những
yếu tố không thể chối bỏ.
Những đặc tính căn bản của cung Thiên Di vừa nói
trên sẽ giúp chúng ta dễ dàng nhìn thấy nét đặc biệt của mẫu người Thân Cư Thiên
Di. Thân cư tại Thiên Di nên cá tính đầu tiên mà chúng ta nhìn thấy ở mẫu người
này là tính thích hoạt động, thích cuộc sống phải có sự thay đổi cũng như thích
di chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không phải là mẫu người trong gia
đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu người như ông bà chúng ta thường ví
là ăn cơm nhà vác ngà voi hay việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.
Từ
đó, nếu quý bà mà đức lang quân có số Thân Cư Thiên Di thì đừng mong cuối tuần
các ông sẽ ở nhà dọn dẹp nhà cửa hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng đừng có buồn với
những bữa ăn cơm lạnh, canh nguội bởi các ông về trễ vì phải họp hội đoàn, thăm
bạn bệnh, đến chùa hay nhà thờ giúp thầy, giúp cha v.v...
Và ngược lại, nếu
phu nhân của quý ông mà có số Thân Cư Thiên Di, thì trước khi cưới hỏi, quý ông
cũng nên lo học trước cách luộc trứng, nấu cơm sao cho chín, cũng như học cách
pha sữa, thay tả, ru con sao cho con ngủ v.v..., bởi vì người đàn bà có số Thân
Cư Thiên Di cũng là mẫu người ngoài xã hội, họ thích cuộc sống bên ngoài hơn là
cuộc sống trong gia đình, những sinh hoạt bên ngoài mang đến cho họ nhiều niềm
vui và sự thích thú hơn là những việc của một người đàn bà phải làm cho chính
bản thân họ, hoặc cho chồng con bên trong gia đình.
Bởi vậy, người Thân Cư
Thiên Di không chịu được cảnh sống lẻ loi đơn chiếc vì họ là con người của đám
đông, của bạn bè, của hội hè đình đám... Người Thân Cư Thiên Di thích giao thiệp
rộng nên thường là những người có năng khiếu trong lãnh vực ngoại giao và tổ
chức.
Trong lãnh vực nghề nghiệp, người Thân Cư Thiên Di thích làm những nghề
có tính cách di động, thường được đi đây, đi đó, tiếp xúc với nhiều người...
Chẳng hạn như hoa tiêu hàng không hay hàng hải, tiếp viên hàng không, chuyển vận
đường bộ, hướng dẫn viên du lịch, phóng viên báo chí hay truyền thanh, truyền
hình, đại diện thương mãi, ngoại giao v.v... đều là những ngành nghề thích hợp
với cá tính của mẫu người Thân Cư Thiên Di.
Hầu hết những người có số Thân Cư
Thiên Di thường ra đời sớm, vào nghề và tự lập sớm hơn những người cùng lứa
tuổi, điều này có thể vì hoàn cảnh và cũng có thể vì cá tính như vậy. Người Thân
Cư Thiên Di có nhiều cơ hội để đi đây, đi đó, sống xa nhà, xa quê hương, nhất là
trường hợp cung Thiên Di đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi là những vị trí của Thiên
Mã, một sao chỉ về sự di chuyển và thay đổi, như vậy chắc chắn họ là những người
thường có cuộc sống nơi đất khách quê người, làm ăn, sinh sống và chết cũng tại
quê người.
Và một nét đặc biệt nữa của mẫu người Thân Cư Thiên Di là cung
Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh, cho nên khi Thân cư vào cung Thiên
Di thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do đó, người Thân Cư Thiên Di như có “hai con
người” trong họ, một con người với những bản chất đã có từ lúc sinh ra, và một
con người khác là con người ngoài xã hội, đậm nét nhất là trong môi trường mà họ
sinh hoạt hằng ngày.
Tóm lại, mẫu người Thân Cư Thiên Di là mẫu người có một
cuộc sống sôi động và thích hợp với ngoài xã hội hơn là trong gia đình. Họ sinh
ra để làm việc, để hoạt động và có máu giang hồ, cho nên thường thích ra đời
sớm, thích sống xa nhà, xa quê hương cho thỏa chí tang bồng.
Kỳ sau, chúng ta
sẽ nói đến mẫu người Thân Cư Tài Lộc, là những người sinh vào giờ Thìn, tức là
từ 7 giờ sáng đến 9 giờ sáng, hoặc những người sinh vào giờ Tuất, tức là từ 7
giờ tối đến 9 giờ tối.
MẪU NGƯỜI “THAM VŨ ĐỒNG HÀNH”
Mẫu người “Tham Vũ Đồng Hành” là
những người có cung Mệnh an tại tứ mộ, tức là bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và
có hai sao Tham Lang và Vũ Khúc tọa thủ đồng cung hoặc xung chiếu với nhau. Nếu
cung Mệnh an tại Thìn và Tuất, thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ xung chiếu với nhau.
Nếu cung Mệnh an tại Sửu và Mùi thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ tọa thủ đồng cung.
Sau phần trình bày khái quát về cuộc đời của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành nói
chung, chúng ta sẽ đi vào chi tiết để xem sự khác biệt của mẫu người tuy là Tham
Vũ Đồng Hành, nhưng Tham Vũ đồng cung tọa thủ tại Mệnh có gì khác biệt với người
Tham Lang thủ Mệnh và Vũ Khúc xung chiếu, cũng như Vũ Khúc thủ Mệnh và Tham Lang
xung chiếu?
Trước tiên, chúng ta nói qua về đặc tính của hai sao Tham Lang và
Vũ Khúc là hai chính tinh trong cách Tham Vũ Đồng Hành Cư Tứ Mộ, rồi sau đó mới
nói đến hai sao phụ khác nữa là Linh Tinh và Hỏa Tinh thì mới đủ bộ và đúng
cách. Tham Lang là Bắc Đẩu tinh, hành của Tham Lang có người cho là hành Thủy,
có người cho là hành Hỏa và cũng có người cho là hành Mộc. Theo thiển ý của
người viết thì Tham Lang thuộc hành Mộc, bởi vậy, khi Tham Lang (đào hoa) tọa
thủ tại cung Tí (cung Thủy), khoa Tử Vi gọi đây là cách Phiếm Thủy Đào Hoa,
nghĩa là hoa đào trôi dạt trên dòng nước. Bản tính của Tham Lang là đặt nặng vấn
đề vật chất trong cuộc sống. Thích hội hè đình đám, những chỗ đông người với
những cuộc vui. Tính rất năng động, háo danh, háo thắng và thích làm những
chuyện lớn cho nên có nhiều tham vọng. Ưu điểm của Tham Lang là có năng khiếu về
kinh doanh, có khả năng tổ chức, nhưng khuyết điểm là mau chán nản và dễ bỏ cuộc
nửa chừng. Nếu Tham Lang ở các vị trí miếu hay vượng địa thì chủ về uy quyền,
giàu sang và sống lâu.
Vũ Khúc cũng là Bắc Đẩu tinh và thuộc hành Kim. Bản
chất của Vũ Khúc rất nghịch với Tham Lang ở điểm Tham Lang thích vui chơi ở chỗ
đông người thì Vũ Khúc lại thích cô đơn, làm việc gì cũng muốn độc hành. Người
có Vũ Khúc thủ Mệnh tính gan dạ, táo bạo, có khả năng tổ chức, có đầu óc kinh
doanh, chủ quyền uy, danh vọng và giàu sang. Chính những điểm tương đồng này
giữa Vũ Khúc với Tham Lang mà bộ Tham Vũ là một bộ sao của những tay kinh doanh
có hạng trên thương trường. Có người cho rằng Tham Vũ là hai sao thuộc về võ
cách, tượng trưng cho võ nghiệp thì tại sao lại hợp với lãnh vực kinh doanh? Để
trả lời cho điều này, chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống của người Hoa Kỳ cũng như
cộng đồng người Việt tị nạn, một số những cựu quân nhân, sau khi giã từ vũ khí,
họ đã thành công một cách dễ dàng trên thương trường. Vậy phải chăng, những đức
tính và khả năng cần có của một người điều binh trên chiến trường cũng cần thiết
cho một người lăn lộn trên thương trường, đúng với câu mà người Trung Hoa vẫn
nói: thương trường như chiến trường.
Được xem là đắc cách Tham Vũ Đồng Hành
thì hai sao Tham Lang và Vũ Khúc phải đóng tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gọi
là tứ mộ, bốn cung này thuộc hành Thổ cho nên đó là bốn vị trí miếu địa, vượng
địa của hai sao Tham Vũ. Một điều kiện quan trọng khác là tại bốn vị trí này, bộ
Tham Vũ phải gặp một hoặc cả hai sao Linh Tinh, Hỏa Tinh. Hai sao Linh Hỏa có
thể đồng cung, xung chiếu hay tam hợp chiếu với hai sao Tham Vũ thì mới đầy đủ
uy lực mà khoa Tử Vi thường gọi là cách Tham Vũ đồng hành cư tứ mộ, ngộ Linh,
Hỏa hào phú gia tư, hầu bá chi quý. Có nghĩa là người Mệnh an tại bốn cung Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi, có Tham Lang và Vũ Khúc đồng cung hay xung chiếu, lại thêm có
một hoặc hai sao Hỏa Tinh, Linh Tinh chiếu vào là số giàu sang, phú quý như bậc
hầu bá dưới thời phong kiến ngày xưa.
Điều mà chúng ta lưu ý ở đây là sự
thành công, phú quý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành không phải từ quan trường,
mà chính là từ thương trường. Như trên chúng ta đã nói, mẫu người Tham Vũ Đồng
Hành rất gan dạ, tự tin, nhiều tham vọng, có óc tổ chức và có năng khiếu về
thương mãi, cho nên họ là những tay kinh doanh có tầm vóc chứ không phải chỉ làm
ăn buôn bán lẻ tẻ. Đó phải chăng là do sự ảnh hưởng kỳ diệu của vòng Ngũ Hành
tương sinh trong cách này: hành Hỏa của Linh Tinh, Hỏa Tinh một mặt phù trợ cho
hành Thổ của bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để tương sinh cho hành Kim của Vũ
Khúc, đồng thời cũng đốt cho Kim này thành Thủy để dưỡng Mộc của Tham Lang, rồi
Mộc của Tham Lang lại là củi cho ngọn lửa Linh, Hỏa cháy bùng lên...
Một đặc
điểm khác đáng lưu ý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là vì ảnh hưởng của Vũ
Khúc, cho nên mẫu người này thường lao đao, lận đận trong tiền vận, và sớm lắm
thì cũng phải qua trung vận, đa số phải đến hậu vận mới có thể gọi là thành công
như ý muốn và lúc đó cơ nghiệp mới có thể bền vững được.
Hỏa Tinh và Linh
Tinh là hai sao Hỏa, cho nên lúc phát thì sẽ giúp cho bộ Tham Vũ phát rất nhanh,
nhưng nếu phát không đúng vào thời vận thì cũng chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên
rồi cũng tắt đi một cách nhanh chóng. Nếu biết được lý lẽ này, mẫu người Tham Vũ
Đồng Hành chẳng nên bôn ba sớm trong cuộc đời mà chuốc nhiều phiền não, đắng
cay. Điều này rất nhiều người đã biết, nhưng họ không cam lòng, để cuối cùng
cũng nói được một câu an ủi với chính mình như Nguyễn Du đã nói: càng phong trần
danh ấy càng cao! Đặc điểm này thấy rõ nhất ở những người Tham Vũ Đồng Hành mà
Mệnh an tại hai cung Sửu và Mùi, hai sao Tham Vũ sẽ đồng cung, khắc chế nhau
mạnh mẽ trong tiền vận (khoảng 33 hoặc 36 tuổi) khiến cho đương số bao lần thấm
mệt và sớm ngộ được cái ý nghĩa của câu: có tài mà cậy chi tài... Phải qua trung
vận và bắt đầu vào hậu vận thì sự nghiệp của người Tham Vũ Đồng Hành có Mệnh an
tại Sửu hay Mùi mới được ổn định và bền vững cho đến cuối cuộc đời.
Nói đến
sự thành công của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành nhanh hay chậm, bền vững hay ngắn
ngủi thì chúng ta cũng nên lưu ý trường hợp nếu Mệnh an ở tứ mộ, có Tham Lang
tọa thủ đồng cung với Hỏa Tinh, thì đây còn gọi là cách Tham Hỏa Tương Phùng,
nếu gặp Linh Tinh thì gọi là cách Tham Linh Tịnh Thủ, cũng là những dạng của
Tham Vũ Đồng Hành, nhưng với cách này, khi đến thời, đương số sẽ phát rất nhanh
vì ảnh hưởng mạnh mẽ của Ngũ Hành tương sinh giữa Tham Lang thuộc Mộc và Hỏa
Tinh thuộc Hỏa đồng cung với nhau. Tuy nhiên, công danh sự nghiêp dù có phát rất
nhanh chóng, nhưng cũng chẳng giữ được lâu bền, vì đây cũng chỉ là cách bạo
phát, bạo tàn mà thôi.
Tương tự như vậy, chúng ta xét đến vị trí của hai
chính tinh Tham Vũ tại tứ mộ. Đối với những người Tham Vũ Đồng Hành mà Mệnh an
tại hai cung Thìn và Tuất thì sự khắc chế của hai sao Tham Vũ tương đối nhẹ hơn
vì nằm trong vị trí xung chiếu nhau, vì vậy, sự nghiệp của mẫu người này sẽ
thành đạt sớm hơn, nhưng mức độ của sự thành đạt lại không có kích thước bằng
những người Mệnh an tại Sửu Mùi.
Và một điểm khác biệt nữa là cá tính của mỗi
mẫu người Tham Vũ Đồng Hành sẽ có sự khác biệt tùy theo cung an Mệnh. Khi Mệnh
an ở Thìn Tuất thì nếu chúng ta giao tiếp với những người này, chúng ta sẽ nhận
ra họ như có hai con người khác nhau: một con người vì ảnh hưởng của Vũ Khúc nên
thường sống cô độc, suy nghĩ và quyết định một mình, nhưng khi ra ngoài, sao
Tham Lang lại làm cho họ thành một con người khác, họ biết nói, biết làm cho vui
lòng người khác, mặc dù trong thâm tâm họ không thích như vậy, và phải chăng đây
cũng là một đăÏc tính giúp họ thành công trong lãnh vực kinh doanh?
Tóm lại,
mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là một mẫu người lý thú khi chúng ta quen biết hoặc
hợp tác trong vấn đề làm ăn mua bán với nhau. Họ là những người có cá tính rất
mạnh, gan lì, táo bạo và nhiều tham vọng. Địa bàn giúp họ thành công là thương
trường. Và thời điểm mà họ xây dựng được sự nghiệp như ý là hậu vận của cuộc
đời.
MẪU NGƯỜI “CỰ KỴ”
Tâm lý chung của nhiều người khi nghiên
cứu về khoa Tử Vi là thường chỉ chú tâm đến những bộ sao chính như Tử Phủ Vũ
Tướng, Sát Phá Liêm Tham hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương v.v... Thật ra những cách đơn
giản như Cự Kỵ, hoặc các bộ sao nhỏ như Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ bàn
đến cũng cho chúng ta thấy một số mẫu người có những nét rất đặc biệt trong cuộc
đời, nếu không muốn nói là những cách, những bộ sao nhỏ này đôi khi còn ảnh
hưởng sâu đậm hơn và chi phối mạnh mẽ hơn trên cuộc đời của đương số. Và trước
khi phác họa những nét đặc biệt cũng như những điểm giống nhau và khác nhau của
hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục Vượng Tướng, chúng ta hãy bàn qua bản
chất của mỗi sao trong hai cách này.
Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm Bắc Đẩu
tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý nghĩa thì
Cự Môn là cái miệng, và chúng ta đã biết, con người sống cũng nhờ cái miệng,
chết cũng vì cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị người ghét cũng
bởi cái miệng của mình mà thôi... Ngoài ý nghĩa trên, nếu Cự Môn tọa thủ tại
những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang, thông
minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành ngoại
giao, giao thiệp, dạy học, luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá số của con cái mình
có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và Thiên Phù hội
họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành luật, vì tương lai
chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại, nếu Cự Môn rơi
vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ, cứ mở miệng ra
là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị phi khẩu thiệt
mà thôi.
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí Ngọ là
cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Thái
Dương là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ
là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn gọi là Tì Hà Ngọc, có nghĩa là ngọc
bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ, một ám tinh với nhiều tính xấu
như độc hiểm, ích kỷ, ghen tương, tai tiếng, thị phi, kiện cáo, tai họa, bệnh
tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất như vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho
viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ cũng có một điểm tốt là giữ được
của.
Cách Cự Kỵ không có gì đáng nói đối với nam mệnh, ngoài những nét tổng
quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường hay bị nhiều điều thị phi khẩu
thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ
mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc hàm ý chỉ vào phái nữ, hay nói rõ hơn
là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một người đàn bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà
chúng ta nói đến là bàn nhiều đến lá số của những người đàn bà có cách Cự Kỵ.
Khi lá số của một nữ mệnh có Cự Môn tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu
hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải lưu ý một
điều là khi luận đoán một lá số của nữ mệnh mà có những cách như Cự Kỵ, Tham Kỵ,
Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng mà chúng ta sẽ đề cập tiếp theo, thì sự cân
nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận trọng, vì vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết và
phẩm hạnh của một người đàn bà. Do đó, chúng ta nên phân biệt rõ ràng mỗi trường
hợp sau đây.
Trường hợp lá số của một người đàn bà mà cung Mệnh có Cự Môn
miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải quan sát thêm ở cung Mệnh và các
cung chính khác như cung Thân, cung Phúc, cung Phu, cung Quan, cung Nô... để xem
nếu có những sao xác định nết đoan chính như Thái Dương, Tứ Đức... hoặc những
sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là
những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến cho mình bị những tai tiếng thị
phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá sai lầm phẩm hạnh của mình mà có
những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu tình dục (sexual harassement). Mức độ
nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật
mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng, tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai
nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những tai họa về sông biển như một số người đã
gặp trên đường vượt biển trong những năm về trước. Như vậy, trong trường hợp
này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh
mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài
ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.
Trường hợp nếu Cự Môn tuy là miếu,
vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như
Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần tình
dục như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy ra cho
đương số là do bản tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn cảnh
chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự Kỵ lại
gặp thêm Đào Hồng thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe hoa, và
khi đã có gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn vì chồng
con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa vị trong
xã hội, là những mệnh phụ phu nhân... Trường hợp này có thể ví như mẫu người của
Vương Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà nửa đêm thân
gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm sao trách được sự đánh giá
nghiêm khắc của người sau: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như vậy, viên
ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc vốn đã có vết, có
bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay người dũa ngọc hay người chủ
của viên ngọc.
Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn hãm địa tọa thủ mà không được
Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao “đoan chính” hóa giải phần nào thì đây là
một mẫu người đặc biệt. Là mẫu người có một bề ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu
thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài thì mới thấy rõ con người thật được che đậy
vốn là một người đàn bà chua ngoa, ghen tương, đố kỵ đủ điều... Và nếu đi kèm
với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba chữ Tì Hà Ngọc thật là đúng nghĩa!
Khoa Tử
Vi cũng cho rằng, cách Cự Kỵ dù tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung chính yếu
khác như cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung Phu Thê cũng còn
nói lên sự bất ổn trong cuộc sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một
đời khó lòng chỉ có một mối tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp
nối hay sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình
thường của mẫu người này, nếu không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ
vỡ trong tình cảm thường là do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen
tương cũng như lòng ích kỷ quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.
Tóm lại, cách Cự
Kỵ không tốt cho cả nam mệnh và nữ mệnh, nhưng đối với nữ mệnh thì sự ảnh hưởng
nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực trinh tiết và phẩm hạnh của đương số. Nói
chung, nữ mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần,
chỉ khác nhau ở mức độ nặng nhẹ mà thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một
trường hợp đặc biệt, cách Cự Kỵ lại rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi
Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số gọi là phản vi kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt
vì có sự ứng hợp.
Những Bí ẩn của khoa Tử vi
Trong suốt hơn một ngàn năm, bộ môn Tử vi
được coi như là khoa học huyền bí bởi tất cả các yếu tố an sao và giải đóan đều
dựa theo một vài công thức định trước, mà không có sự giải thích hay chứng minh
lý do tại sao. Dù tin hay không tin, thực tế cho thấy khoa tử vi cũng đã được
lưu truyền trong dân chúng khá lâu, và ít nhất cũng đã có một số người chấp
nhận, nghĩ rằng có thể dùng để đoán được phần nào vận mệnh tương lai của con
người! Ðiều đáng ngạc nhiên là nếu đúng theo dữ kiện cho thấy, khoa Tử vi hiện
tại này chỉ còn có Việtnam là đất dụng võ, dù có nguồn gốc từ Trung hoa. Ngay cả
các sách viết về Tử vi ở Trung Hoa cũng có nhiều, nhưng họ không thích xài Tử vi
mà lại chọn các môn khác thông dụng hơn như Tử Bình (gọi tắt là Báttự có 8 chữ,
lấy số theo hàng Can và Chi của Năm, Tháng, Ngày và Giờ). Một lý do có thể giải
thích là vì sau này họ đã khám phá và thấy được rằng, vận hành của các sao không
được chính xác như đã tin tưởng lúc ban đầu!
Những gì được người viết phá
thiện và trình bày sau đây cho thấy vài đặc tính khoa học của bộ môn Tử vi. Trần
Ðoàn (được coi như ông Tổ sáng chế ra Tử vi) hay các vị thầy tiền bối của ông
vào khoảng thời nhà Ðường, có thể đã tiến xa hơn và biết khá nhiều về vận hành
của các hành tinh. Nhưng tiếc rằng vì các điều kiện thực tế chủ quan về văn hóa
xã hội thời bấy giờ, nên họ đã dấu kín và giữ kín bí mật tối đa, nhất là không
muốn giải thích hay viết sách để lại lưu truyền cho hậu thế.
Cung An mệnh. Theo quan niệm về triết lý nhân sinh của Khổng giáo chịu ảnh
hưởng ít nhiều đạo Lão, mỗi người sinh ra đều có một số phận được an bài trước
gọi là thiên mệnh. Các nhà lý số hay tử vi gia Trunghoa dựa vào lý thuyết trên
nên tin rằng, khi một đứa bé vừa sinh ra đời là chịu ảnh hưởng định đoạt cho số
phận bởi các tinh tú hiện diện trên trời ngay thời điểm đó. Câu văn nổi tiếng
thường nghe là "...sinh ra đời dưới một ngôi sao..." phản ảnh niềm tin trên. Nói
cách khác, khi một đứa trẻ sinh ra đời tại một địa điểm nào trên trái đất, sẽ
chịu ảnh hưởng của tất cả các tinh tú chiếu vào ngay tại thời điểm đó, và định
đoạt số mệnh luôn cả đời cho đứa bé vừa sinh!
Không phải tự nhiên mà các
Tử vi gia (TVG) bày đặt ra cách an mệnh trong Tử vi như sau: Khởi từ cung Dần
(hay tháng Giêng) đếm theo chiều thuận (kim đồng hồ) đến tháng sinh, rồi từ đó
lại đếm ngược cho tới giờ sinh để an cung mệnh. Dựa vào triết lý số phận cùng
cách an cung mệnh cho thấy, các TVG thời đó đã khám phá ra được hai đặc tính vận
hành của trái đất và mặt trời, một đúng và một sai!
Thứ nhất, đúng là họ
đã biết trái đất tự xoay vòng quanh lấy chính nó theo chiều ngược với kim đồng
hồ! Trò chơi lồng đèn xoay (còn gọi là đèn kéo quân hay đèn cù) rất thịnh hành
vào thời nhà Ðường, cho thấy các TVG lúc bấy giờ có thể đã có khái niệm về trái
đất tròn và xoay. Nhưng như đã viết ở trên, họ đã giữ làm bí mật gia truyền, và
nhất là sợ nguy hiểm cho chính bản thân và gia đình do quan niệm "Thiên cơ bất
khả lậu" hoặc vì những người cầm quyền như Vua Chúa không tin (giống như
trườnghợp của Gallileo). Một lýdo khác là ngay chính các TVG cũng không hiểu và
không giải thích được hiện tượng tại sao con người không bị rơi ra ngoài nếu
trái đất xoay tròn! Thêm vào, các hiện tượng thiên nhiên như nhật thực hay
nguyệt thực, đã tạo cơ hội để các TVG hiểu ánh sáng từ mặ ttrăng là do từ ánh
sáng mặt trời chiếu vào và thỉnh thoảng lại bị trái đất che (cho trường hợp
nguyệt thực). Có thể với cách suy luận tầm thường và đơn giản theo lối chứng
minh "phản đề" là: Nếu Trái đất nằm yên không xoay, thì dựa vào quan sát hàng
ngày cho thấy mặt trời, mặt trăng, năm (5) hành tinh và đa số các tinh tú thấy
được, phải "chạy" xung quanh trái đất mỗi ngày một lần! Ðiều này cho thấy hoàn
tòan vô lý vì nhờ các hiện tượng nhật thực và nguyệt thực. Cụ thể như nhờ có
hiện tượng nhật thực toàn phần giữa ban ngày, các TVG đã thấy được các ngôi sao
và các hành tinh hiện ra, dù trong chốcl át. Nghĩa là không phải vào ban ngày,
các tinh tú chạy xuống dưới đất rồi đến tối mới hiệnlên!
Thứ hai, các
TVG đã hiểu sai khi khám phá ra và tin rằng mặt trời quay chung quanh trái đất
mỗi năm một lần theo chiều thuận kim đồng hồ! Nhưng thật là may mắn cho khoa Tử
vi, cái sai về lý thuyết lại trở thành đúng trên thực tế! Lý do là nhờ luật
tương đối về chuyển động. Nghĩa là nếu các TVG đang đứng trên trái đất nhìn mặt
trời, trong khi trái đất di chuyển xung quanh mặt trời theo chiều ngược kim đồng
hồ, thì cũng giốngnhư các TVG đứng trên trái đất nằm yên, và nhìn mặt trời di
chuyển xung quanh trái đất theo chiều thuận kim đồng hồ!.
Những bằng
chứng trên cho thấy khi an cung mệnh, các TVG đã theo gần đúng nguyên tắc vận
hành của trái đất và mặt trời, xác định vị trí tương đối lúc đứa bé sinh ra đời
trong thái dương hệ. Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh và giải thích rõ ở đây thêm
một chút để tránh sự hiểu lầm. Ðúng ra, phần nào là do ảnh hưởng thể xác của
người mẹ, do tính di truyền hay phù hợp với môi trường vào thời điểm đó, nên
"chuyển bụng" mà sinh ra đứa bé, hơn là do cơ thể đứa bé sinh ra chịu ảnh hưởng
của các hành tinh!
Vòng Tử vi và Thiên Phủ: Coi như quan trọng nhất cho lá số tử vi nên dựa vào
tất cả bốn yếu tố là Năm, Tháng, Ngày và Giờ sinh. Nghĩa là chịu ảnh hưởng của
Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh. Theo nhận xét của người viết thì có thể
sau khi định vị trí của đứa trẻ khi mới sinh ra đời dựa vào tháng và giờ, các
TVG còn dựa vào hai yếu tố sau cùng là vị trí của các hành tinh hay thiên can,
và vị trí của Mặt trăng hay ngày sinh. Nhưng làm sao họ biết sao Tử vi phải được
an ở đâu dựa vào ngàysinh (?), và đây vẫn còn là một bí ẩn cần được nghiên cứu
thêm. Câu trả lời tạm thời là có thể các TVG đã dựa vào quan sát thực nghiệm
hình dạng và khuôn mặt của hàng trăm (hay vài ngàn) đứa trẻ trong một thời gian
kéo dài cả mấy trăm năm. Khoa Tướng số cũng có thể nhờ đó mà phát sinh ra. Nên
nhớ là ngày nay các nhà coi Tử vi chuyên nghiệp cũng cần phải dựa vào hình dạng
hay tướng mạo để "điều chỉnh" và kiểm chứng lại trước khi bàn tới lá số của
người nào.
Vòng Thái tuế: Trong số những người Việt nổi tiếng một thời
nghiên cứu về khoaTử vi, có thể TVG Thiênlương (bút hiệu) là người đã khámphá ra
những yếu tố quantrọng đặc biệt nhất về vòng an sao Thái tuế. Vòng Thái tuế theo
quan niệm của nhóm nghiên cứu TVG ThiênLương, có ảnh hưởng nhiều đến thái độ
sống và cách ứng xử của con người đối với xã hội. Tại sao vòng Thái tuế lại đóng
một vai trò chính trong khoa Tử vi? Câu trả lời là vì đã dựa vào sao Mộc tinh
(Jupiter). Các chiêm tinh gia từ xưa đã quan sát và biết chu kỳ đặc biệt duy
nhất gần 12 năm của Mộc tinh trong Thái dương hệ. Nhưng yếu tố chính quant rọng
ở đây là họ đã cảm nhận được ảnh hưởng của Mộc tinh đối với các sinh vật đang
sống trên trái đất, nhất là con người theo từng năm (bởi vậy nên Sao Thái tuế
bao giờ cũng an theo năm sinh, nghĩa là sinh năm nào thì an Thái tuế ở ngay cung
đó).
Theo dữ kiện khoa học tìm thấy được, Mộc tinh (Jupiter) hay saoThá
ituế có hai đặc tính nổ ibật nhất trong Thái dương hệ. Thứ nhất là Hành tinh lớn
thứ hai chỉ nhỏ hơn Mặt trời, với đường bán kính trung bình khoảng chừng 70 ngàn
cây số (km), gấp 11.2 lần Trái đất. Do đó, lực hấp dẫn (gravity) của Mộc tinh
lên Trái đất rất là đáng kể (chỉ sau Mặt trăng quá gần với Trái đất). Thứ hai,
và đây mới chínhl à điều đáng nói, ảnh hưởng từ trường của Mộc tinh mạnh nhiều
hơn khoảng 10 lần của Trái đất. Yếu tố sóng từ trường như các phát hiện gần đây
cho thấy, ảnh hưởng rất nhiều trên não bộ của con người nhất là cho các trẻ em!
Thí dụ cụ thể là cách đây mấy năm, đã xảy ra hiện tượng một số các trẻ em Nhật
bị ói mửa và bất tỉnh vì coi một chương trình truyền hình! Hay giới y học càng
ngày càng có khuynh hướng tin và công nhận các loại sóng từ trường, từ các dụng
cụ điện tử hay các đường dây điện cao thế, có thể gây nguy hại cho não bộ con
người nếu hấp thụ quá nhiều!
Trở lại chuyện tử vi, theo lý giiải của phái
TVG Thiênlương nếu người nào an mệnh tại cung có sao Tuếphá, xung chiếu với cung
thiên di có sao Thái tuế, thì người đó thường hay bất mãn chống đối, sinh bất
phùng thời, v.v. Ðể kiểm chứng hiện tượng trên, người viết chọn một lá số thí dụ
để cho cung mệnh có được sao tuế phá: Người tuổi Canh-Thìn (1940), sinh tháng 9,
giờ Tý, mệnh an ở cung tuất. Sau đó, dùng cách định vị trí của các hành tinh vào
thời điểm nói trên, thì thấy rằng vị trí trên mặt đất vào giờ đó đối diện thẳng
với sao Mộc tinh, và ở vị trí gầnnhất
Dựa vào TVG Thienluong chothấy
người sinh tháng 9 giờ Tý và người sinh tháng ba giờ Ngọ đều an mệnh tại cung
Thìn và có cùng sao Tuế phá tại mệnh. Khác biệt duy nhất của hai trường hợp trên
là chỉ có người sinh tháng 9 mới chịu ảnh hưởng hoàn toàn của Tuế phá, trong khi
người sinh tháng 3 thì ngược lại không ảnh hưởng tí nào vì nhờ mặt trời che hoàn
tòan! Một yếu tố có thể là do ảnh hưởng của sóng từ trường quá nhiều từ mộc
tinh, nên não bộ của đứa bé lớn lên sẽ có khuynh hướng phát triển nhiều, thuộc
loại thông minh hơn người, và thường đưa đến trường hợp chống đối những chuyện
chướng tai gai mắt, nên dễ đưa đến bất mãn vì không hùa theo với người được
(trường hợp của CaoBá Quát trong lịch sử). Mặt khác có thể do thiếu giáo dục và
hướng dẫn, dễ kết bè đảng với kẻ xấu (Kiếp,Không, Sát Phá Tham hãm địa) thành
tay đạo tặc gian hùng v.v. Nên nhớ là những tay đạo tặc gian hùng có tiếng tăm
phần đông đều thuộc loại thông minh hơn người rất nhiều!
Hai hànhtinh gần
mặt trời nhất cũng có thể làm cơ sở để an một số sao trong Tử vi. Kim tinh
(Venus) có chu kỳ 0.61 và quay trở lại vị trí cũ (khoảng chừng 5 vòng) cho mỗi 3
năm tròn của trái đất, nên có một số sao trong Tử vi chỉ an theo ba (3) nhóm
gồm: Thìn Tuất Sửu Mùi (Tứ mộ), hay Dần Thân Tỵ Hợi và Tý Ngọ Mão Dậu. Ðặc biệt
Thủy tinh (Mercury) quay quanh mặt trời quá mau, cứ mỗi ba tháng làm 1 vòng,
trong khi trái đất cứ ba tháng lại di chuyển một phần tư (1/4) vòng chung quanh
mặt trời, nên theo vị trí tương đối của người đứng quan sát từ mặt đất sẽ thấy
như Thủy tinh chỉ di chuyển trong 4 vị trí chia đều trên vòng tròn (vì tầm nhìn
quan sát bị gián đoạn không liên tục do vị trí của Thủy tinh quá gần mặttrời).
Phải chăng vì vậy mà sao Thiên Mã và một số sao khác chỉ an trong 4 cung thuộc
trong 3 nhóm trên(?)
Những gì vừa được trình bày cho thấy mặc dù khoa Tử
vi đẩu số không được hoàn hảo và còn nhiều nghi vấn theo tiêu chuẩn khoa học
hiện đại, nhưng dám chắc rằng đó chính là biểut ượng cho tinh hoa của nền văn
minh Ðông phương, một thời rạng rỡ đã qua trong thiên niên kỷ đầu tiên của nhân
loại, và hy vọng sẽ có ngày trở lại trong vinh quang của thiên niên kỷ thứ ba
này.
Văn và số
Phạm Thị Hoài
Nghề văn và nghề tử vi có những tương ứng
kỳ lạ. Mới vào thì hăng hái say mê như không thể dứt. Cái say của kẻ tin rằng số
phận là thứ có thể lĩnh hội, văn nghiệp là thứ có thể thủ đắc. Vậy hãy khao khát
băng tới đích, hãy tràn trề tham vọng, hãy ham muốn đạt được một cái gì.
Tất nhiên có một số đông trong văn giới bẩm sinh là những vị tuẫn nạn, say mê
của họ thuần là khổ hạnh vì chữ nghĩa; một số đông nữa là những bậc thánh đã rửa
hết tục, lòng sạch còn lại chỉ dành cho cái vĩnh cửu của văn chương mà thôi; và
một số đông khủng khiếp nữa là những văn nhân luôn luôn thuộc về phe bại và đã
giải hoà với số phận đen đủi của mình từ lâu, họ là tổng hoà thành công của
những vị tuẫn nạn và những bậc thánh. Nhưng số đông ấy đáng kính tới mức không
có gì để bàn đến nữa. Ta hãy xem cái say mê tầm thường, hạn hẹp, người ngợm hơn
của thiểu số còn lại, trong đó hình như có mình, biến đổi theo thâm niên nghề
nghiệp như thế nào.
Ta vào nghề viết với lòng khấp khởi, rằng
văn chương là một pháo đài có thể chinh phục. Chính ta chứ không phải gã hàng
xóm có cái diễm phúc làm một vị hoàng đế, một nguyên soái, một đại tướng, mèng
thì làm một tay cắm cờ hay thổi kèn gõ trống, tệ nhất cũng làm chân xung phong.
Chưa hẳn hiếu danh, nhưng ta thành thực hiếu thắng. Dĩ nhiên không mấy ai ưa vỗ
ngực khoe mình hiếu thắng. Nếu phải lý giải, ta sẽ tìm rất giỏi những nguyên cớ
phần lớn là cực sâu xa, cao thượng, phức tạp, quyết định cái hành vi đơn giản,
là viết. Những nguyên cớ đó nếu không thực có trong bản thân ta cũng không hề
gì, chúng là những thứ có thể vay dễ dàng ở mọi nơi. Ai dùng cũng thế. Vậy là ta
đã đầy nguyên cớ. Nhưng gã hàng xóm cũng hoàn toàn có quyền đầy nguyên cớ như
thế, ngoài ra gã cũng chăm đọc văn lắm, cũng tu dưỡng tư duy nghệ thuật, cũng ôm
ấp những lý tưởng, cũng cho Truyện Kiều là bất hủ, cũng kính chữ như kính
trời... Vì sao gã không viết? Chẳng phải lòng tin vào thành quả, niềm hy vọng ở
tài năng mình và ham muốn được kẻ khác thừa nhận, nếu không muốn nói thêm là cả
lòng ham đua tài đọ sức, đã đẩy ta, chứ gã thì không, qua cái cổng dẫn vào làng
văn đấy ư? Không ai lỡ sẩy chân sa vào rồi đành mắc kẹt ở đó. Không ai, nhất là
những kẻ một mực tuyên bố rằng mình chỉ thuần tuý rong chơi trong nghệ thuật, và
những kẻ than phiền rất khổ sở rằng mình bất đắc dĩ mà dụng văn, không ai bước
vào đó mà không giắt sẵn trong những khe ngách kín đáo nhất của tâm hồn mình một
chút hy vọng và khao khát thành công. Không thành công thì cũng thành nhân, nghe
khiêm tốn lắm. Vậy sao chẳng thành người ở chỗ khác? Nghệ thuật nào phải chỗ dễ
thở nhất trong nhân gian.
Nhưng thành công trong văn chương
còn lắm vẻ hơn thành công trong cuộc đời. Sớm thì ngay lập tức. Muộn thì ba trăm
năm sau. Một lời khen của bạn vàng có khi đủ, một chỗ đứng trong lịch sử có khi
chưa thoả lòng... Tôi không muốn phải bàn về nỗi ngây ngất khi ta đuổi theo một
dấu phảy như cái đuôi tuyệt mỹ của con chồn tinh quái. Một cuộc săn bền bỉ và
hùng tráng. Dấu phảy ơi, hãy đợi đấy! Hoặc phải bàn về lòng hân hoan của kẻ đang
nối mạch cuối cùng ở quả bom nghệ thuật sẽ nổ vào rạng sáng ngày mai, khiến bầu
trời văn chương quá tròn còn thiêm thiếp ngủ của chúng ta rạn nứt và méo theo
chương trình thẩm mỹ đầy sửng sốt của hình bát giác... Vậy chỉ xin bàn về cái
triển vọng khiến ta hoa mắt ở đầu đời văn: rằng ta đã bước qua đúng cánh cửa
phải bước, đã nhằm đúng hướng. Ta nhất định làm nên một cái gì. Còn lại chỉ là
sức lao động và thời giạn Nói cách khác, ta đã vững tin ở thành quả văn chương
của mình tới mức có thể rộng rãi tuyên bố về hai yếu tố không mấy quan trọng còn
lại: "nghệ thuật là một phần trăm tài năng cộng chín mươi chín phần trăm lao
động" và "thời gian sẽ phán xử". Thật là một sự rộng rãi khinh suất và tai hại,
nhưng vào thời điểm này, đầy lòng tin, ta còn hào phóng tuyên bố vô số chân lý
bất diệt hơn nhiều.
Người mới nhập môn tử vi cũng sốt sắng tin
tưởng như vậy. Y xoè bàn tay trái ra, thoăn thoắt dùng đầu ngón cái lướt trên
mười hai ô viền bốn ngón còn lại để an sao lập số. Chỉ cần xong vòng Tử Vi và
vòng Thiên Phủ là y đã hình dung ra đại cương của một số phận. Đã vẽ được chút
tính tình và diện mạo của đương số. Cứ đà này, đủ 110 vì sao, thì chân tơ kẽ tóc
của số ấy nằm trong tay y. Văn chương thông qua hình tượng nghệ thuật mà miêu
tả, tái hiện, bình luận và tân tạo cuộc sống thì tử vi thông qua hình tượng tinh
tú mà miêu tả, tái hiện, bình luận và tân tạo cuộc đời. Nhưng có khi chưa cần
thông qua một hình tượng nào hết, mới lập xong lá số lắm người đã thấy mình là
thày tử vi. Ở cái thuở toàn dân còn mải học chữ to trên bảng, có lẽ những người
chép được chữ nhỏ lên giấy đã nghiễm nhiên thành văn sĩ.
Lập
một lá số cần những công thức nhất định. Đôi khi người ta cãi nhau về cách an
vòng Tràng Sinh, bộ Kình Đà và bộ Hoả Linh trong trường hợp âm nam dương nữ. Với
Lưu Hà, Khôi Việt, La Võng và cả Tứ Hoá cũng không hoàn toàn thống nhất. Bộ sao
Giải phần lớn chỉ ghi nhận Giải Thần và Thiên Giảị Thêm vào đó Địa Giải là tăng
toàn lá số thành 111 vì sao. Nhưng Kim Thánh Thán chẳng bình rằng "Thuỷ Hử
truyện tả nhất bách bát cá nhân tính cách, chân thị nhất bách bát dạng", khiến
ta truyền tụng về Thi Nại Am dựng 108 nhân vật theo 108 tinh tú trong lá tử vi
đó sảo Vậy lượng sao trời quyết định số phận ta cũng co giãn lắm. 108, 110, 111,
hay thêm 9 vị sao lưu là thành 120? Song các môn đệ của tử vi biết rõ, đường đến
nghệ thuật lớn phải gian truân, những hòn sỏi len vặt vào giày chưa làm ai nản
chí.
Chép chữ lên giấy nào có khác. 29 chữ cái trong tiếng Việt có luật của chúng.
Ta cũng cãi nhau về việc cho CH, GH, GI, KH, NG, NH, PH, QU, TH và TR quyền tự
quyết, tiếng Việt vậy có thể giàu thêm 10 chữ cái. Thỉnh thoảng ta giật mình vì
gặp Z, như một ngôi sao lạc (Địa Giải chẳng), rất có thể là chữ cái thứ 40.
(Không có chữ ấy không có nhà thơ Hồ Dzếnh.) Cách dùng I với Y mãi không thống
nhất nổi, các giải pháp xung quanh bộ D-GI-R, bộ C-K-QU, bộ X-S, thậm chí cả bộ
CH-TR cũng đành để ngỏ, chưa kể mấy loại quy tắc đánh dấu khác nhau, mấy quan
điểm ngữ pháp, mấy quy định viết hoa và dùng gạch nối, mấy phép phiên âm/không
phiên âm tiếng ngoại quốc... Vô số biến thể của các phương ngữ làm nốt cái nhiệm
vụ là khiến ta từ bỏ mọi ý định tìm kiếm một quy tắc hợp lý. Tài trí xuất chúng
và đảm lược phi thường như cố Alexandre de Rhodes mà còn bị các phương ngữ Việt
thao túng, vậy nhã độ của ta là đầu hàng. Miền Bắc đương nhiên biết vợ lẽ khác
vợ lẻ, miền Nam cũng chắc rằng la ve chứ không la dẹ Nhưng phải viết thầy hay
thày, y chang hay y trang, xí xoá hay xuý xoá, trần sì hay trần xì, giông bão
hay dông bão, hổ lốn hay hẩu lốn, vứt bỏ hay vất bỏ, cà rỡn hay cà giỡn hay cà
trớn, layơn hay laydơn hay dơn hay glaieul hay Gladiole hay gladiolus, rút cục,
rốt cuộc, rút cuộc hay rốt cục, của đáng tội hay quả đáng tội, riêng tư hay
riêng tây, đằng nào hay đàng nào, dấn thân hay dẫn thân, manh mối hay mành mối,
trụ sở uỷ ban hay trú sở uỷ ban, khuyến mại hay khuyến mãi, lai căng hay lai
cẳn... Tưởng ăn hoa hồng là phải, hoá ra ăn hoả hồng cũng là phải, tưởng miệng
còn hoi sữa, nhưng miệng còn hôi sữa và miệng còn hơi sữa cũng xọng Rởm đúng
rồi, nhưng dỏm cũng đúng lắm. Phải viết bất thình lình hay thình lình, gây sức
ép lên ai đó hay gây sức ép với ai đó, trong giấy hay trên giấy... Tra tiếng
Việt cần lắm mưu mẹo và cảnh giác cao độ. Chẳng hạn cuốn Từ Điển Tiếng Việt của
Trung Tâm Từ Điển Học do Hoàng Phê chủ biên, in lần thứ sáu năm 1998, không ghi
nhận những từ như chuyển giao công nghệ, công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn pháp
định, khuyến mại/mãi, tiếp thị, Việt kiều, thuyền nhân, trại cải tạo, toàn trị,
quốc xã, đa đảng, kẻ sĩ, phân tâm học, tâm thức, thiện nguyện, chống cộng, đĩa
bay, đường cao tốc, kẹo cao su, karaôkê, thăm nuôi, đánh quả, trúng mánh, ôsin,
gái cave, cửu vạn, xe ôm, chợ đuổi, cơm bụi... Bù vào đó, từ điển này chính thức
cho tiếng Việt thêm bốn mục chữ cái là F, J, W và Z. Còn ai dùng cuốn Từ Điển
Chính Tả Tiếng Việt của Nguyễn Trọng Báu do nhà xuất bản Giáo Dục cho in năm
1997 lại không biết viết những từ như à, ách, am, anh, ánh, áp, âu, ầu, ấu,
bạch, bám, banh, bành, bánh, bạnh... cà, cá, cam, cám... Ít nhất hàng trăm từ
thông dụng đều vắng mặt không xin phép như vậy. Lẽ nào trong tiếng Việt đã xảy
ra một exodus, một cuộc đào thoát? Bệnh vọng ngoại của tôi thường phát mạnh ở
những chỗ thật khó hiểu, chẳng hạn cứ khi nào bế tắc trong từ điển Việt của
người Việt tôi lại mò vào quyển Annamite-Francais của J.F.M. Génibrel. Năm nay
ta đã chê Britannica năm trước là cũ. Quyển Génibrel xuất bản cách đây 101 nặm
Thày tử vi ta cãi nhau có thể lôi sách Tàu ra dựa.Sách Tàu nhiều như muối biển,
bảo quyển này đúng, quyển kia sai, là quyền ở thàỵ Nhà văn ta cãi nhau không dựa
vào đâu được, nhưng bảo chữ này đúng, chữ kia sai, cũng là quyền ở mình.
Vậy mà chưa ai non gan đến mức buông bút vì phép chép chữ. Các nhà thơ có thể
nhổ vào phép tắc. Thơ hay là thơ nằm ngoài ngôn từ, mới bập bẹ xếp vần ta đã
nghe dạy thế. Vậy ngôn từ sai cả cũng không ảnh hưởng. Sai tới mức không biết
hiểu thế nào cho phải là có thể thành sấm truyền. Tiểu thuyết hơi khác, hỏng vài
trăm chữ cũng còn mấy chục vạn đáng đọc, vả lại những tác phẩm vĩ đại thường
không hoàn toàn. Truyện ngắn ở vào thế bất lợi hơn cả, sai một li đi một dặm.
Nhưng nhà văn Việt vốn ưa thử thách, thường nhè việc khó nhất mà đảm đương. Như
thày số hăng nghề gí mắt vào lá số, trước hết là lá số của chính mình, ta cũng
nôn nóng chúi mũi vào trang văn, trước hết là văn mình. Hấp dẫn biết bao! Kỳ
diệu biết bao! Chẳng lá số nào giống lá số nàọ Văn chương muôn nhà muôn cách.
Vậy số ta thế nào và văn cách ta thế nào?
Bất luận thế nào, đằng
sau một lá số phải là một số phận sinh động, đằng sau trang văn là cuộc đời
thực, ta thuộc lắm cái nguyên tắc chán ngắt đó. Giá nhanh chân hơn, được đầu
thai vào thuở các văn nhân nước Việt nhiệt đới còn được phép sáng tạo những mùa
đông có cây tùng đội tuyết và tự do so những mĩ nữ không thể có trong hiện thực
với những loài hoa chưa ai từng biết..., giá được như vậy thì thoải mái biết bạo
Nhưng lịch sử không thể quay ngược. Đã từ lâu, trước khi các nhà văn Việt Nam
biết phục tùng hiện thực trong những căn nhà gương do thuyết phản ánh của mĩ học
Mác-Lê thiết kế, ta đã dọn sẵn mình để sống dưới quyền năng của hiện thực. Nhưng
nó có gì đáng sợ đậu Dù ai mang cả bộ Hồng Lâu Mộng ra dạy rằng văn chương cổ
điển phương Đông từng theo sát cái bản lai diện mục của cuộc đời như thế nào, dù
ai lấy thêm bộ Đi Tìm Thời Gian Đã Mất ra doạ rằng hiện thực cũng ngồn ngộn
trong văn chương hiện đại phương Tây, dù ai khuân toàn tập Kim Dung ra chứng
minh rằng bỏ qua những đoạn phi thân độn thổ thì mọi thứ trong đó đều như thật,
đều theo phép tả chân cả, và cuối cùng, dù ai đem ngàn trang Chiến Tranh và Hoà
Bình ra đòi cho được một tác phẩm tầm cỡ tương tự xứng đáng với thực tế chiến
tranh và cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, vâng, dù lẽ phải hiển nhiên đứng
về phe những kiệt tác như thế của văn chương nhân loại, tôi dám đoán rằng ngày
nay không một nhà văn nào vào nghề bằng cách nghĩ nhiều hơn một phút về hiện
thực. Ta bận tâm đến đủ mọi sự, trừ một sự đương nhiên: đương nhiên văn chương
xuất phát từ cuộc đời, dù đấy là một cuộc đời nhạt nhẽo và bé tí. Chẳng lẽ còn
một điểm xuất phát nào khác nữa. Ở tác phẩm đầu tay, đời sống hay chí ít cái ta
cho là đời sống lại thường có vẻ thừa thãi tung toé trên giấy. Lắm người tiếc
của trời, đúng hơn phải gọi là của đời, nhặt những mảnh vãi mà làm tiếp, cũng
thành một tác phẩm thứ hai. Tôi hiểu ra rất chậm, rằng văn chương không đương
nhiên có cái bổn phận quái quỷ là xuất phát từ cuộc đời như vậy. Câu hỏi về hiện
thực không hẳn là vô cớ, nhất là khi những đòi hỏi của chủ nghĩa hiện thực không
hề là điều kiện nguyên uỷ của văn chượng Song vô nghĩa chủ yếu là những câu trả
lời. Đời sống và nghệ thuật biết những cách ràng buộc nhau thông qua vô vàn tầng
môi giới mù mịt, được một tầng minh bạch đã là nhiều. Trăm giọt sữa rỏ từ vú đời
xuống giấy mà giấy vẫn trơ màu giấy, đến giọt nào giấy bỗng chuyển thành màu
văn. Có thứ văn ngẫu nhiên từ đời mà ra. Có thứ văn tuyệt nhiên cứ dầm chân tại
chỗ trong đời. Có thứ văn hiển nhiên cho đời với mình là một. Có thứ văn siêu
nhiên, hẳn xuất phát từ siêu đời. Có thứ văn thuần tuý từ văn mà ra. Lại có thứ
văn rõ ràng không sinh ra từ đâu cả... Một mô hình giữ không nổi mà bỏ cũng
không nổi như mô hình Chân Thiện Mĩ rút cuộc cũng dùng được vào một việc: để xác
định ba vấn đề căn bản, một là cơ sở, điểm xuất phát của văn chương; hai là mục
đích, điểm đến; và ba là bản thân sự vận động của nghệ thuật ở khoảng giữa. Ta
đã thấy cơ sở của văn chương, đi liền với cái Chân, chẳng có gì là đương nhiên
và chắc chắn cả. Cái Thực và cái Thật không đồng nhất đã đành, mà khi lấy Chân
đối với Hư là lịch sử văn học thành ngay một mớ bòng bong. Các nhà lãnh đạo nghệ
thuật xưa nay không gỡ rối. Họ chỉ chặt phăng tất cả những gì không nên lọt vào
các đề cương và tuyên ngôn luôn hết sức ngay ngắn gọn gàng của họ. Xung quanh
hai vấn đề còn lại, đi liền với Thiện và Mĩ, tình trạng không sáng sủa gì hơn.
Nhưng trước khi thày tử vi ngờ rằng số phận là nguyên mẫu của lá số hay lá số
mới thật là nguyên mẫu của số phận, trước khi thày hoảng hốt thấy mỗi lúc một
trùng điệp những yếu tố trung gian che mờ mọi tương quan giữa một nhúm ký hiệu
lập trên bàn tay trái hay trên màn hình máy tính với một đời sống nào đó, trước
khi thày chán nản quẳng túi càn khôn với 108, 110, 111 hay 120 tinh đẩu vào một
xó bụi, trước khi như vậy thì khoa tử vi còn đầy vẫy gọị Mấy ngàn câu tử vi phú
và tử vi diễn ca chẳng lẽ vô dụng cả sao? Bao nhiêu kinh nghiệm chung đúc, bao
nhiêu chỉ dẫn và nhắc nhở của những người đi trước, bao nhiêu công thức, bao
nhiêu bí quyết... Tất cả đều hứa hẹn và khích lệ đừng bỏ cuộc.
Bao nhiêu phương châm và lời chỉ giáo ta cũng từng tuân thủ, để viết? Bao nhiêu
điều kiện và những phẩm chất ta đã buộc phải có, bao nhiêu lý tưởng phải noi
theo, bao nhiêu lý thuyết rồi lại bao nhiêu chủ trương, đề cương, tuyên ngôn,
phong trào, trường phái. Chắc không ai đếm nổi. Những bí quyết thành công của
cái nghề văn càng ngày càng khó thành đạt này chắc chắn nhiều hơn của cả nghề
luyện đan và thuật giả kim gộp lại. Ta có thể bảo, vì thế mà văn chương thỉnh
thoảng đạt đến độ hoàn thiện và bất tử, còn vàng ròng chưa ai chế được, linh đan
càng khộng Vậy luyện văn theo bí quyết nào?
Ta thử bắt đầu
với một bí quyết có vẻ giống thứ thần dược ở chợ phiên: mọi cuốn sách hướng dẫn
viết truyện thành công ngay đều khuyên, hãy để nhân vật chính ở ngôi thứ ba.
Điều hết sức đơn giản ấy với các nhà văn Việt lại có vẻ phức tạp không ngờ.
Truyện Việt Nam dù nôm hay Tàu, văn xuôi hay văn vần, từ thuở nào đều để mọi
nhân vật ở ngôi thứ ba. Đến Hồ Biểu Chánh, Khái Hưng, Nhất Linh... cũng thường
như vậỵ Trừ Nguyễn Tuân, đối với các nhà viết truyện Việt Nam thời 1930-1945,
"thời đại cái Tôi" theo lời Hoài Thanh, ngôi thứ nhất đảm nhiệm đầy đủ chức năng
nhân vật nghệ thuật vẫn là điều không thể, dù Hoàng Ngọc Phách từng đi trước một
chút với Tố Tâm, thực tế đã là giọng kể từ ngôi thứ nhất. Phạm Quỳnh trong bài
diễn thuyết về văn học nước Pháp tại Hội Trí Tri năm 1921 có tha thiết lưu ý
giới thưởng ngoạn Việt Nam đến Montaigne với bộ Cảo Luận (Essais) chỉ thuần nói
về mình, kể chuyện mình, lấy mình làm đích. Thời của Montaigne, hơn bốn trăm năm
trước, là thời văn chương Việt còn ém mình kĩ lưỡng trong những cách khiếm danh
và phiếm xưng. Có lẽ nhà văn nước ta những năm 20 chê Montaigne là quá cũ, hoặc
có lẽ ông chủ Nam Phong đã gây đủ ác cảm trong những giới thức giả nhất định,
Cảo Luận không tìm được hồi ậm Tuỳ bút của Nguyễn Tuân chắc chắn có những người
cha tinh thần khác. Theo tiết lộ của Nam Cao trong "Đường Vô Nam" (1946), đấy có
thể là Paul Morand.
Trở lại với các ngôi nhân vật, độc giả
Việt Nam cho đến nay vẫn hâm mộ truyện tiền chiến, cũng do công lao của các nhân
vật chính ở ngôi thứ ba chăng?Vậy vì lẽ gì mà nhà văn Việt sau này càng ngày
càng xa rời cái bí quyết thành công ấy? Trong văn học Việt đương đại, xu hướng
dùng ngôi thứ nhất đã áp đảo tới mức có thể thành một thông lệ. Tác giả mới hầu
như chỉ dùng ngôi Tội Tác giả lâu năm cũng chuyển ngôi từ lúc nào không rõ. Có
những tác giả chưa bao giờ dùng một ngôi nào khác Tội Cuộc Tôi hoá tập thể này
hẳn có bối cảnh phức tạp và trái khoáy, bản thân tôi đã bao lần thử viết một
cuốn truyện kiêng ngôi thứ nhất, lần nào cũng không thành. Chẳng hạn tôi muốn
theo cái mốt khả ái là nữ lưu viết truyện trinh thám, chỉ vì không chọn nổi một
đại từ nhân xưng cho nhân vật nam chính mà đành bó tay. Chàng chắc chắn là hỏng.
Không phải văn chương tiền chiến mà văn chương miền Nam trước 1975 đã thoả mãn
vĩnh viễn nhu cầu dùng chàng-nàng trong văn học Việt Nam, cũng như nhu cầu về
đồng chí đã cạn kiệt sau văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa. Anh chẳng Tôi
không dám hứa với độc giả là nhân vật này đáng gọi là anh như vậy, anh theo
nghĩa cụ Trần Trọng Kim dạy trong Việt Nam Văn Phạm không được, anh theo nghĩa
anh Kim Đồng, anh Trỗi sau này càng không. Anh ta cũng không ổn, độc giả sẽ lập
tức nghi anh ta chính là thủ phạm. Hắn là đại từ ưa thích của các nhà văn, song
độc giả chẳng ưa: không nghi ngờ gì nữa, hắn là thằng tội phạm! Các đại từ nhân
xưng đã phá án ngay từ đầu như vậy thì tác giả còn việc gì mà làm? Nhân vật nữ
chính ở ngôi thứ ba lại càng rắc rốị Hãy hình dung, chị Dậu của Ngô Tất Tố mà
thành cô Dậu thì sự thể ra làm sao! Nam Cao hẳn đã khổ nhiều về niêm luật đại từ
nhân xưng, giải pháp thứ nhất của ông là cho phắt cả nam nữ ngôi thứ ba một cách
gọi duy nhất: y. Sinh trong Sống Mòn cũng y, mà vợ y cũng y. Giải pháp thứ hai,
nam là hắn, gã, thằng, nữ đơn giản là thị. Chẳng lẽ thị Nở có thể là chị Nở, ả
Nở, cô Nở, nàng Nở? Những đại từ ấy dùng cho thế giới nhân vật của Nam Cao, đám
người khốn nạn mọi đàng, có vẻ đích đáng lắm. Song không dùng được cho những
trai tài gái sắc, Lan và Điệp, Loan và Dũng... Lẽ nào lại có một thị Kiều và một
thị Vân dang tay dạo bước trên đồi thông Đà Lạt, một thị Sứ trong Hòn Đất, một
thị Út Tịch? Tiếng Việt tuy dành ra một giải pháp bất ngờ, lấy ngay khái niệm
người để chỉ những nhân vật đáng kính. Chỉ có điều từ khi người (viết thường) -
chứ không phải ngài - thành Người (viết hoa), cơ hội vốn đã nhỏ của đại từ này
hạn chế hẳn ở một vài nhân vật hưởng chế độ ưu tiên, cũng như khi bác thông
thường thành một Bác duy nhất. Những sáng kiến táo bạo như vậy không có nhiều và
đâu dễ áp dụng trong văn học. Phan Khôi từng đề nghị dùng va cho ngôi thứ ba,
song đến thế hệ tôi thì chữ ấy đã xa xôi như nghỉ, chỉ mở Kiều ra mới gặp. Giải
pháp tiện hơn cả cho nhà văn Việt là thay đại từ chỉ ngôi thứ ba bằng tên nhân
vật. Tên nhân vật lặp đi lặp lại dày đặc: "Người u già này ở nhà Dung đã lâu
lắm, đã nuôi và săn sóc tất cả anh chị Dung từ lúc bé. Nhưng, không biết vì có
phải thấy Dung ra đời trong sự lãnh đạm, mà u già đem bụng thương yêu Dung
chăng." (Thạch Lam, "Hai Lần Chết"); "Tết năm nay Trâm đẹp lắm, mà Trâm sung
sướng quá vì Trâm đã mười sáu tuổị.." (Khái Hưng, "Ngày Xuân Lễ Chùa"); "Chị
Thời mến Nhị, khen Nhị hiền lành, ngoan ngoãn, để cho Nhị hoàn toàn tự dọ" (Mai
Thảo, "Những Tấm Hình Của Chị Thời"); "Jean thì chưa được chứng kiến cảnh tượng
đó bao giờ. Bố mẹ Jean có thể yêu nhau từ kiếp trước chứ đời Jean thì chỉ thấy
bố mẹ chửi nhạu" (Lê Đạt, "Con Báo Hoa Xứ Tuyết")... Những tác giả vừa dẫn đều
nổi tiếng với một văn cách riêng, song tôi có cảm tưởng rằng, khi họ phải dùng
đến cái giải pháp phổ thông nêu trên, họ bỗng cùng nhau hoà vào một giọng. Tôi
đành xin lỗi mà gọi giọng ấy là giọng tuổi mơ. Thật khó mà bi tráng, từng trải,
gân guốc, dũng mãnh, bạo liệt, dữ dội, cuồng nhiệt, sắc sảo, chua chát, cay
đắng, riết róng, siêu thoát, phóng túng, khinh bạc, ngạo nghễ..., thật khó mà đi
tới những giới hạn cuối cùng của mọi cung bậc tình cảm bằng giọng tuổi mơ ấỵ Chỉ
có thể lãng mạn nhỏ nhẹ, mãi xanh tươi, mãi ngọt ngào, thoang thoảng một chút
suy tư đầu đời, man mác những nỗi đau mới lớn.
Văn chương mỗi nước có lúc già lúc trẻ, ấy là lẽ tự nhiện Văn học của xã hội
Việt Nam cổ truyền chưa bao giờ thực sự trẻ. Trong bốn tài năng xuất chúng sinh
ra từ đó: Du, Hương, Khiêm, Quát, chỉ có Cao Bá Quát và Hồ Xuân Hương từ chối
giọng đạo mạo muôn thuở và cho phép mình hưởng một chút bồng bột nhất định của
tuổi trẻ. Cao Bá Quát không kịp già. Còn Hồ Xuân Hương, thật may là ta không bao
giờ biết rõ tuổi bà nữa. Tuổi không hề đóng một vai trò nào trong gần một ngàn
năm nước Việt có văn học viết. Lê Ngọc Hân mới ngoài hai mươi, còn Phan Huy Ích
đã ngoài bốn mươi khi Nguyễn Huệ mất. Giọng một người vợ trẻ nhất định không
giống giọng một ông nho nòi đã chín muồi, vậy mà không thể dựa vào tuổi để xác
định bản quyền trong vụ án Ai Tư Vãn. Trần Tế Xương ở lúc giao thời rõ ràng có
khuấy đảo cảnh nghiêm trang nề nếp của một thời đại văn học đã xế chiều, song dù
mòn mỏi cắp lều chõng đi thi và không thọ quá tứ tuần, ông tú ấy có thể là một
ông cụ non và một thày đồ gàn chứ không đời nào là cậu học trò tinh nghịch. Văn
học Việt Nam quả thật như thay da đổi thịt với Thơ Mới và văn xuôi lãng mạn tiền
chiến, song bất chấp mọi cái non nớt, ấu trĩ, chông chênh, thời đại văn học ấy
cũng không hoàn toàn trẻ. Sinh khí mới mẻ của nó trước khi tìm được những cơ thể
trẻ trung tương ứng đều ngụ nơi những đại diện chín chắn của nền cựu học ở buổi
hoàng hôn. Văn đàn sôi nổi thuở Việt ngữ vừa mới lớn, thời hiện đại vừa mới chớm
và thế kỷ vừa bắt đầu ấy phần lớn vẫn giữ giọng mực thước, nghiêm nghị, thận
trọng, già cả, của những tiên sinh và phu nhân, những ông những bà những thày
chững chạc đến mức khiến ta quên rằng, nhiều vị trong số họ còn chưa đầy tuổi
lập thân theo quan niệm truyền thống. Rồi một lúc nào đó, hương tuổi mơ cũng
theo những cơn gió lãng mạn của thời đại mà sực dần vào chốn lầu văn thâm
nghiêm. Nhưng phải đợi đến cơn bão lãng mạn của Cách mạng Mùa Thu, văn học Việt
Nam mới thực sự cải lão hoàn đồng. Như tiền bối của nó không bao giờ trẻ dù có
thể xuân sức, nó không bao giờ già dù đã mệt mỏi, đã thôi chí thanh tân, đã hết
lửa lòng từ lâu. Thế kỷ đã tàn, Cách mạng đã về hưu, Việt ngữ đã trưởng thành
nhiều và thời hiện đại đã đứng bóng, lẽ nào cái văn chương sinh ra từ đó mãi
ngây thơ, nhí nhảnh? Mãi tuổi mở Mãi học trò? Mãi vị thành niển Mario Puzo khi
đã thành danh cũng kiên quyết mách các đồng nghiệp kém may rằng, hãy viết bằng
ngôi thứ ba. Bí quyết ấy có thể dùng với tiếng Anh chăng? Trong tiếng Việt đương
đại, ngôi thứ ba chỉ giỏi trói nhà văn vào những thứ tình bất đắc dĩ. Như tình
tuổi mơ.
Mọi kinh nghiệm đúc kết trong nghề văn thật ra đều
có thể vô ích tương tự, dẫn đầu là lời khuyên điên rồ, rằng hãy lắng nghe và chỉ
nghe theo tiếng nói tự đáy lòng mình. Có một chỗ xứng đáng để tin cậy quả nhiên
là may mắn hiếm có. Lại là chỗ gần nhất, ngay trong chính mình, thật tiện lợi
biết bao. Vả lại khi dư luận cứ nhất định im ắng ghê rợn thì tiếng lòng mình
càng vô cùng cần thiết! Bạn văn cũng sẽ đồng ý ngay với tôi rằng, sau bao nhiêu
nao núng và thất bại thì cuộc phấn đấu của giống nòi nghệ sĩ chống lại tất cả
những áp đặt từ bên ngoài đối với bản thân mỗi cá nhân cuối cùng đã thành tựu.
Mọi thế lực từng hoành hoành trên sự thui chột thảm hại của cá tính sáng tạo đã
lần lượt bị thanh toán. Ở đâu đó, nơi những trật tự cố hữu nào đó vẫn sót lại,
rất có thể còn những thi sĩ phải gọt thơ cho tròn, những tiểu thuyết gia phải
đúc nhân vật cho vuông vắn, những nhà phê bình phải mài luận lí cho nhẵn thín,
và tình yêu văn chương phải là thứ tình chân chính trong vòng xếp đặt của những
bậc trưởng thượng... Nhưng xu thế chung là sự toàn thắng của một thế giới nghệ
thuật tuyệt đối chủ quan. Chỉ còn tiếng lòng của chính mình. Thế giới khách quan
dường như cũng đã tận diệt. Ở thời buổi này, lấy bất kỳ một chuẩn mực từng biết
nào để định giá tác phẩm sẽ lố bịch biết mấỵ Đúng như vậy: đừng theo Kinh Thi,
đừng dựa vào Kinh Thánh, đừng bói trong Kinh Dịch, đừng nương Kinh Phật, đừng
nghe Marx, đừng căn cứ vào nghị quyết của Ban văn hoá và tư tưởng, đừng đặt cược
vào chủ nghĩa tự do, đừng lấy Nguyễn Du làm chuẩn, đừng trông vào truyền thống,
đừng tin những ông trùm văn chủng và nhân chủng của các đế quốc văn hoá, đừng
làm nô lệ cho bon gout, đừng học Trần Dần, đừng ngã vào vòng tay hậu hiện đại,
đừng tìm lời đáp trong thiên nhiên, đừng vì trách nhiệm với cộng đồng, đừng để
thẩm mĩ toàn cầu mua chuộc, đừng chạy theo khoa học, đừng quan tâm đến các
festivals, đừng để giải Nobel lung lạc, đừng chú ý đến các tập đoàn xuất bản
khổng lồ, đừng ghé thăm hội chợ sách Frankfurt, đừng gửi tác phẩm mới in cho các
nhà phê bình danh tiếng, đừng yên tâm khi được đăng trong The New Yorker, đừng
đọc Liber, tất nhiên là đừng theo dõi báo Nhân Dân và báo Văn Nghệ, đừng hài
lòng khi ở hải ngoại được trong nước xuất bản và ở trong nước được hải ngoại
xuất bản, đừng thất vọng khi kẻ thù bỗng dửng dưng, đừng yếu lòng vì thư độc
giả, đừng sờn lòng khi mọi bản thảo gửi đi lại quay về... Tôi từng dịch thư của
R.M. Rilke gửi một nhà thơ trẻ, trong đó có những dòng như sau: "Không ai có thể
khuyên ông và giúp ông, không một ai. Chỉ có một cách duy nhất mà thôi. Ông hãy
đi vào chính mình...- và khi thơ bật lên từ cuộc hướng nội, đắm mình trong thế
giới của riêng mình đó, ông sẽ không còn nghĩ đến việc hỏi ai rằng thơ ấy có
được không. Ông cũng sẽ không tìm cách bắt các tạp chí phải chú ý đến thơ mình
nữạ.." Song không xa đoạn trích ấy là bao, Rilke lại viết: "Ông đang trông cậy
vào bên ngoài, mà đấy chính là điều không nên làm trong lúc này." Không nên làm
trong lúc này! Vậy lúc nào nên làm cái việc trông cậy vào bên ngoài. Lúc nào thì
cái thế giới tuyệt đối chủ quan của mỗi chúng ta lại cần đến một công cụ ít
nhiều khách quan hơn? Lúc nào thì tiếng nói tự đáy lòng ta bỗng mất tăm, chẳng
phải vì sự ồn ào bên ngoài lấn át, mà đúng hơn vì tự huỷ trong một không gian
cách âm ngày càng thu nhỏ? Lúc nào ta lại sẵn lòng đánh đổi tất cả những thành
quả đắt giá của tự do sáng tạo lấy một chút câu thúc tự bên ngoàỉ Có cái coócxê
nào bó buộc và thít chặt như bộ nịt của luân lý và đạo đức? Cởi ra đã vất vả
lắm, xong lại thèm đeo ngay vào. Văn chương đại chúng ở phương Tây, giữa cái
thời đại được coi là không còn gì thiêng liêng và ràng buộc này, thời đại của tự
do và phá phách, chẳng do dự gì hết khi phải vượt qua những giới hạn nào đó,
càng quá càng tốt, miễn sao mê hoặc được lòng người. Nếu cần thì nó dùng luôn
những thành tựu của nghệ thuật tiền phong, chẳng quản gì cấm kị. Nhưng rường cột
của nó, nguyên tắc sống còn của nó, bí quyết cốt lõi của nó lại là cái sơ đồ
luân lý bất di bất dịch về cái Thiện rồi sẽ thắng cái Ác. Thắng. Ở phút cuối
cùng. (Tôn giáo cũng chẳng cho cái Thiện thắng ngay từ đầụ Nghệ thuật theo gương
ấy là khôn ngoan lắm.) Hãy quẳng người đọc xuống biển, vì hắn thích được ngụp
lặn trong kích động như vậỵ Hãy lùa đến đó một đàn cá mập, một đội hải tặc, một
chiếc tàu ngầm khổng lồ của thằng cha mắc bệnh vĩ cuồng nguy hiểm nhất thế giới,
thêm một đám thuỷ quái bầy nhầy phát sinh từ một trận thử bom Mỹ hay bom Nga...
Chỉ có điều đừng quên cấp cho người đọc chiếc phao thô sơ nhưng an toàn của cái
Thiện để dùng vào phút chót. Khi chăm chỉ nhấn mạnh đến lần thứ bao nhiêu không
đếm nổi tính tất yếu ấy của luân lý, khi thắt chặt hơn nữa chiếc coócxê đáng
ghét ấy, các phát ngôn viên của văn hoá Việt lấy văn chương bán chạy của phương
Tây làm mẫu chẳng Đông đảo độc giả Việt Nam đang chờ để được quẳng xuống biển
Đông, với mọi nguy hiểm tương tự và sẵn sàng để cái Thiện bao trọn gói như vậy.
Mọi điều kiện cho văn chương bán chạy ở Việt Nam cũng đã chín muồị Tiêu chuẩn
của đám đông ngày nay đối với cá nhân nghệ sĩ có lẽ đã thành thiên mệnh. Chữ
Thiện đã đủ tầm vóc siêu thị. Nếu còn muốn theo đuổi nó thì quầy ướp lạnh với
những gói luân lí hạng nhất đông cứng là điểm đến của văn chương.
Một người như Nguyễn Tuân thuở trẻ, sợ đến cả cái ràng buộc của đồ dùng - khi
nền văn minh đồ dùng còn chưa kịp đến, sau một đám tang liền tính chuyện phơi
dãi mình ra một chỗ thoáng - khi nền văn hoá hiếu lễ còn chưa kịp đi, người
ngang trái khác thường ấy, riêng một mình một cõi, nhất nhất một tinh thần cá
nhân thượng đẳng, cũng là người suốt phần đời còn lại chỉ lo tẩy xoá vất vả
chính cái cá nhân đó. Đừng trông vào riêng mình, và tốt nhất là đừng trông vào
mình, lời khuyên ấy có lẽ thiết thực hơn chăng?
Khoa tử vi cũng
dạy ta sợ phép biện chứng chẳng kém. Tử Vi đức hạnh đủ đầy ư? Tất nhiên như vậỵ
Nhưng Đế toạ La Võng hoàn vi phi nghĩa chi nhân, chớ tưởng đế tinh không lâm bại
địa. Nhật Nguyệt Sửu Mùi của ông mờ ám xấu xa, của bà muôn phần rực rỡ quý hiển.
Song Lộc bó nhau lại không bằng Song Hao chúng thuỷ triều động Đắc Không, ngộ
Không và kiến Không là ba số Không không chung nhau điều gì... Sau những bài học
chưa đáng tuyệt vọng gì như thế, các môn đệ tử vi may ra mới bắt đầu ngờ rằng
mình vừa mất mấy tháng trời để múc một giọt nước giữa đại dượng Biết bao giờ
đong đủ? Biết thế nào là đủ? Không phải khoa tử vi chỉ ra quá nhiều cách mà một
số phận có thể rơi trúng. Trái lại thì đúng hợn Nhưng chính số lượng hạn chế của
các mẫu lí lịch trữ sẵn trong cái chương trình đã hình thành gọi cho là từ đời
Tống của nó mới là đầu mối của mọi sự rắc rốị Mỗi cách buộc phải toả thành nhiều
cách nhánh. Đến lượt mình, mỗi nhánh lại phải thâu tóm nhiều nhánh con. Cứ như
vậy, cho đến khi mỗi cách số là một bản đồ chằng chịt, lan sang những bản đồ bên
cạnh, đè lên, che mờ, cộng hưởng, triệt tiêu, sinh sôi những nẻo mới... Tinh đẩu
trong tử vi vì thế có vẻ thành viên mafia, đều chính thức có chân trong một tổ
chức nào đó, một bộ, một nhóm, một gia đình, song hành tung chồng chéo, hoạt
động chân rết và liên hệ đa phương của mỗi vị khiến thế giới ngầm ấy mãi mãi là
trùng trùng bí ẩn. Rút một dây động cả rừng. Nhưng dây nào đáng rút? Chẳng trách
có thày cuối cùng chỉ xem một cung Nô cho là đủ. Có thày chỉ luận thằng Phá Quận
Có thày đặt mọi hy vọng ở Đào-Hồng. Có thày chỉ còn trông vào các sao Hoá. Và
rất nhiều thày đã mất lòng tin từ lậu Lòng tin dường như cũng như lợi nhuận ở
thị trường chứng khoán. Có thể được, có thể mất. Nhưng lấy lại thì không thể.
Bản đồ văn học cũng chằng chịt như thế và nỗi sợ của nhà văn cũng dày lên cùng
với lòng tin thưa dần. Chẳng trách có nhà cuối cùng chỉ cậy vào cái gọi là Đẹp.
Chữ Mĩ trở thành trại tị nạn cho những kẻ trốn chạy khỏi ngõ cụt của vô cùng.
Vào nghề thì văn học không thể thiếu ta. Bỏ nghề chẳng được, hoá ra chính là ta
không thể thiếu văn học.
Tử Vi
TÍNH CHẤT: Đức độ, uy nghi, công danh quyền quý
Tử vi ở mệnh
thường suốt đời không hay bị tai nạn .
Tử Vi là vua các sao, ở Ngọ là chính
ngôi, ở Sửu, Mùi gặp phá quân, vua bị cường đồ .
- Tý, vua mất ngôi .
-
Mão, Dậu, gặp Tham Lang, vua chán việc đời, vua đi tu .
- Các cung khác, cần
phải gặp nhiều cát tinh hội mới phát .
Tử Vi gặp Tả, Hữu, Long, Phượng là
quân thần khánh hội: Làm lên tột bực .
Tử Vi không gặp Tả, Hữu và nhiều cát
tinh, vua mất bề tôi, không thể phát to được .
- Người có Tử Vi thủ mệnh,
Miến địa hay Vượng địa, thường cao lớn người đẫy đà, mập mạp, nước da hồng hào,
vẻ mặt khoan hậu, tâm tính thẳng thắn, hầu hết cuộc đời được phú quý vinh hoa .
Tử vi Miến, Vượng, hình dung, cốt cách, quyền biến vô thường, tốt nhất được gặp
Tả, Hữu, Long, Phượng, Tam hóa, Lộc quyền, Khôi, Việt, tất làm lên tột bực, phúc
thọ song toàn .
Tử vi Hãm địa, thân hình vừa phải, nếu gặp Không kiếp, nước
da không được nhuận, thêm đa sát tinh, cuộc đời vui ít buồn nhiều, công danh
trắc trở .
Tử vi gặp tuần triệt án ngữ, cha mẹ thường chết sớm, khắc huynh
đệ, lúc thiếu niên mang nhiều tật bệnh, sức khoẻ kém, công danh trắc trở xuất tổ
ly tông gặp nhiều hoạn nạn . Ngoài ba mươi tuổi trở về sau được hanh thông, gặp
nhiều may mắn .
Tử vi an tại Mão, Dậu, người thường chán đời, yếm thế, bi
quan, nếu có đa sát tinh xâm phạm, phải đi tu, hội thêm tướng, ấn, Long Phượng
làm tới Hòa Thượng .
Tử Vi Miến, Vượng và Đắc địa tại mệnh cần phải có nhiều
cát tinh hội hợp và cốt nhất là Tả, Hữu, nếu không cuộc đời chỉ sống một cách an
nhàn đủ ăn đủ mặc .
Nam mệnh:
Mệnh Thân có Tử vi đắc cách tất cuộc đời
được tài lộc phúc thọ, thêm nhiều trung cát tinh đắc cách, phú quý song toàn,
công danh tột bực .
Tử vi độc thủ tại mệnh là người hiền lương, nếu gặp nhị
sát, không thọ thêm Dương, Đà, Hỏa, Linh chỉ nên núp bóng cửa thiền .
Tử Vi
gặp phá quân tại Sửu, Mùi là con bất hiếu, thần bất trung, Hội với trung cát
tinh làm lên, nhưng không bền .
Nữ mệnh:
Mệnh Thân có Tử vi và thiên phủ
hội với nhiều cát tinh, là người thuộc vào hạng mệnh phụ phu nhân, đức độ song
toàn, vượng phu ích tử, suốt đời được sung sướng và sống lâu .
Tử vi tại cung
phu quân hội với nhiều cát tinh, chồng danh giá và có chức phận trong xã hội .
Nếu gặp phá quân, cũng hưng vượng về tiền tài, nhưng hay dâm đãng, tính không
thật lòng .
Tử Vi gặp tuần triệt tại nữ mệnh, khắc chồng hại con, nếu không
cũng phải làm vợ thứ, vợ nhỏ mới tránh được kinh thương và đau khổ .
Hạn
Hạn gặp Tử vi cùng gia đa cát tinh đắc cách, tài lộc đều hưng vượng . Đại tiểu
hạn gặp mọi việc đều thành, số phát quý tất thăng quan tiến chức . Số phát phú
ắt tiền của bạc nhiều, thứ dân gặp tiền tài hưng vượng .
Đại tiểu hạn trùng
phùng, đế tinh hãm gặp triệt là tai nạn nguy hiểm .
Gặp Kình đà không kiếp
linh hỏa, ốm đau, tán tài gia thân .
Sát phá liêm tham hãm hội hợp là vong
gia bại sản .
PHỤ GIẢI VỀ PHÚ ĐOÁN
1. Tử vi cư Ngọ vô hình Kỵ, Giáp, Đinh, Kỷ vị chí
công khanh .
Mệnh tại Ngọ có Tử vi rất đẹp đẽ . Người tuổi Giáp, Đinh, Kỷ rất
hợp làm tới công khanh, nếu gặp hình kỵ và nhiều sát tinh ắt không được tốt .
2. Tử vi Nam Hợi, Nữ Dần cung, nhâm, giáp, sinh nhân phú quý đồng .
Đàn ông
mệnh an tại Hợi, đàn bà mệnh an tại Dần, có tử vi tọa thủ . Người sinh thuộc
tuổi nhâm, giáp có công danh phú quý lưỡng toàn . Các tuổi khác cũng hay .
3.
Tử vi, Thiên Phủ, toàn y phụ bật chi công .
Cung mệnh có tử vi, thiên phủ,
thêm Tả, hữu, hội đa cát tinh chính chiếu, chung thân danh giá giầu sang .
4.
Tử Vi Mão, Dậu, Kiếp không, Tứ Sát, đa vi thoát tục chi tăng .
Mệnh an tại
Mão, Dậu có tử vi, Tham Lang gặp kiếp, không và tứ sát là Kinh, Đà, Linh, Hỏa,
tất phải xa lánh trần tục để đi tu .
5. Tử vi đồng cung vô sát thấu, giáp
nhân hưởng phúc chung thân .
Mệnh an tại Dần và Thân có tử, phủ, nếu không
gặp sát tinh, người tuổi Giáp gặp cách này sẽ sung sướng và sống lâu .
6. Tử
vi phá quân vô Tả, hữu, vô cát diệu, Hung ác hôn loại chi đồ .
Tử vi phá quân
an tại mệnh, không có Tả, Hữu và nhiều cát tinh, tất làm quan chức nhỏ, thấp lại
độc ác, tham nhũng và dâm dật .
7. Tử vi phụ Bật đồng cung, nhất hô há nặc cư
Thượng Phẩm .
Mệnh có tử vi gặp Tả, Hữu, đồng cung, người có cách này làm
quan to chức trọng, nói một tiếng muôn người nghe theo, nếu ở tài quan cũng rất
tốt .
8. Tử vi Xương, Khúc, phú quý khả kỳ .
Cung mệnh có tử vi hội cùng
văn xướng, văn khúc, được hưởng giàu có sang trọng .
9. Tử, phủ, Giáp mệnh vi
quý cách
Mệnh an tại Dần, Thân giáp Tử vi, Thiên Phủ là tốt đẹp hiếm có .
10. Tử vi, thất sát, hóa quyền, Phản tác trinh tường
Cung mệnh có tử vi, thất
sát, hóa quyền tọa thủ, là người có danh vọng và uy quyền trong xã hội .
11.
Tử vi, Vũ Khúc phá quân . hội dương đà, khi công họa loạn, chỉ nghị kinh Thương
.
Cung mệnh có Tử, Vũ, Phá tọa thủ, lại có Kình dương, Đà la hội hợp, là
người chỉ thích buôn bán không u8a công danh, nếu gặp thời loạn tất giàu có lớn
.
12. Tử vi quyền Lộc, Ngộ dương, Đà, tuy mỹ cát nhi vô đạo, vi nhân tâm,
thuật bất chính .
Mệnh Thân có tử vi tọa thủ gặp quyền lộc hội hợp, Thân có
Dương đà, tuy vẫn có danh vọng giàu sang, nhưng gian tà, vô đạo và không có
chính nghĩa .
13. Tử phá mộ cung, bất trung bất hiếu .
Cung mệnh có tử vi
phá quân tại tử mộ, là con bất hiếu, tôi bất trung, gian tà phản tặc .
14. Tử
vi Mạc Phùng địa kiếp, Hồng đào nhập mệnh, Giảm thọ chi niên .
Cung mệnh có
tử vi Tọa thủ phùng hồng đào, người có cách này không sống được thọ lâu .
15.
chu mãi thần, Tiền bần hậu phú do hũu khốc, hư chính hướng . Trương tử phòng,
Thao lược đa mưu do tử phủ kỵ quyền .
Chu mãi thần khổ trước sướng sau là vì
có khốc hư Tý, Ngọ . Trương tử phòng mưu tài, kế giỏi là nhờ mệnh có Tử, Phủ,
Kỵ, Quyền .
16. Đế tọa ly cung, Kỵ phùng hao sát, Hạnh ngộ khôi, Khoa, HỮu
tài phụ chính .
Mệnh an tại Ngọ có tử vi tọa thủ gặp khôi, khoa là người có
tài kinh bang tế thế, nếu gặp Kỵ, Hao, kiếp sát tất cũng có tài phụ giúp kẻ trên
mình .
17. Tử vi Tu cần tam hỏa . Nhược phùng tứ sát: Phong bãi ba hoa .
Cung mệnh có tử vi tọa thủ gặp Tam hỏa là Khoa, quyền lộc, tất vinh hoa phú quý
. Nhưng gặp Kình, Đà, Không kiếp ắt rất xấu khác nào như cánh hoa bị mưa gió phũ
phàng .
18. Tử vi trung hậu .
Cung mệnh có tử vi nhập miếu tọa thủ là
người rất hiền lương và trung hậu .
19 . Mão, Dậu tử, Tham, Vi tăng đạo, Cát
quý gia tượng lực vinh phong .
Cung mệnh an tại Mão, Dậu có tử, Tham tọa thủ
hội nhiều hung cát tinh đắc cách, tất cũng có quyền binh và giầu sang .
20 .
Cấn, Canh, Tử Phủ vi phật nhi .
Cung mệnh an tại Dần, Thân, có Tử, Phủ là
người to mập giống chẳng khác gì con nhà Phật .
21. Vận suy, hạn suy . hĩ tử
vi chi giải hung ác .
Vận hạn vô cùng suy sụp mà gặp được tử vi tất bớt đước
hung hãn đi .
TÍNH CHẤT: Thông minh, phúc hậu, từ thiện .
Thiên phủ là tài tình lại kiêm cả phúc tinh nữa, nên có gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa, cũng không đáng ngại lắm, người có như vậy chỉ bị thuyên giảm phần nào về đường quan chức thôi .
Phủ gặp nhiều sát tinh là người cuồng ngôn loạn thuyết .
Phủ gặp Thai Phụ, Phục Binh, Hổ tại nữ mệnh: Thường bị hiếp dâm (ghê dzị)
Phủ gặp tuần triệt án ngữ: Cô đơn, nghèo khổ, bệnh hoạn (hình như XM bị tuần triệt án ngữ á, nhưng nhờ Thiên Phủ của XM là Hãm, xấu gặp xấu trở thành tốt phải hông ? )
Phủ gặp Kỵ, Kiếp, Không: Rất xấu, nếu có Thanh Long lại trở thành tốt đẹp .
Cung mệnh có Thiên Phủ Miếu Vượng và Đắc địa tọa thủ, thân hình vừa phải, cân đối, khuôn mặt đầy đặn, nước da trănghồng, tâm tính thông minh, hiền lành, trung hậu và từ thiện . Cuộc sống thường êm đềm, giải tránh được nhiều tai họa và lại sống lâu .
Phủ gặp tử vi tại Dần Thân hội với Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Xương, Khúc là người học giỏi, tài cao, được hưởng công danh phú quý tột bực và sống lâu .
Phủ gặp Kiêm Trinh tại Thìn, Tuất cùng hội hợp với nhiều hung sát tinh Đắc địa, là người phát to về võ nghiệp và có uy quyền hiển hách, nhược phùng thêm nhiều cát tinh đắc cách ắt văn võ toàn tài, thông minh quý hiển và làm nên tuyệt vời .
Phủ gặp tuần triệt án ngữ, nên thường trắc trở về đường công danh, sự nghiệp thăng trầm, khắc phụ mẫu và anh em, cuộc sống phải phiêu bạt xa quê hương để làm ăn, nhưng về già dễ chịu, gặp nhiều may mắn ( )
Phủ gặp Không, Kiếp, Kình, Đà, Hình, Hỏa là người thân thể không được khoẻ mạnh, nước da hơi tái, nóng tính, hơi gàn, tra nịnh, tâm tính phóng túng . Về đường công danh thường bị trắc trở, sự nghiệp thăng trầm, nếu có phú quý cũng chỉ là phù vân và tuổi thọ còn triết giảm nữa .
Nam mệnh:
Cung mệnh có Thiên phủ tọa thủ gặp những cá tinh đắc địa như: Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, Xương, Khúc là người học hành thông minh; lại được hưởng công danh tột bực .
Phủ gặp nhiều hung sát tinh hội hợp như Kình, Đà, Hình, Hỏa, Linh Kỵ là người tâm tính gian trá, gia thêm Không, Kiếp tất cô đơn vất vả cùng cực . Người có như vậy chỉ nên đi tu mới tránh được nhiều cảnh đau lòng .
Nữ mệnh:
Nữ mệnh có Thiên phủ tọa thủ, hội với nhiều cát tinh đắc cách, là người đàn bà khôn ngoan, phúc hậu và tiết hạnh, lại vượng phu ích tử, sớm hiển đạt về đường công danh, được hưởng giầu có và phúc thọ .
Phủ gặp Kình, Đà, Không, Kiếp, HÌnh, Hổ, đàn bà thiếu thời phải trắc trở về đường tình duyên, nếu không cũng đau khổ về chồng con, hơn nữa lại phải chịu nhiều gian truân và cực khổ về vật chất lẫn tinh thần . Người có như vậy chỉ nên núp bóng cửa thiền ắt mới tránh được sự cô đơn và bần yểu .
Hạn
Hạn gặp Thiên phủ là phát tài, tiền lộc hưng vượng, mọi điều xứng ý tọai lòng . Phủ gặp nhiều cát tinh hội chiếu, rất quý hiển, công danh phú quý lưỡng toàn .
Phủ gặp Tam không, ắt tán tài, khuynh gia bại sản, gia thêm Hung sát tinh, cô đơn cùng cực .