Thời nay ruộng đất thuộc sở hữu toàn
dân, không còn ruộng hương hoả, không còn chế độ thu tô như trước,
quyền lợi của tộc trưởng hoặc người thay tộc trưởng, đối với tổ tiên
và họ hàng cũng tuỳ thuộc vào nhận thức; tâm tư, trình độ hiểu biết,
hoàn cảnh sinh sống của từng người, không có một chế độ quy định nào
ràng buộc. Có nhiều họ, tộc trưởng ngụ cư hoặc không thoát ly công tác
ở phương xa cũng không giao (hoặc không giao được) việc họ cho ai.
Trong hoàn cảnh đó, việc hương khói tế tự tổ tiên và quan hệ họ hàng bị
phế khoáng. Thể theo nguyện vọng, tâm tư,
tình cảm "Uống nước nhớ nguồn", ngày giỗ ngày tết con cháu muốn dâng
lên Tổ tiên bát nước, nén hương. Để bổ cứu tình trạng trên nhiều họ đã
có sáng kiến thành lập một hội đồng gồm những người có uy tín, nhiệt
tình trong họ để chăm lo việc họ. Chưa có một văn bản hay có một tiền
lệ nào qui định đó là ban nghi lễ. là hội đồng gia tộc hay hội đồng
tộc biểu ... Trước mắt, họ nào mạnh hay
yếu, thành đạt hay suy vi, tình cảm họ hàng gắn bó hay không, tác động
tốt xấu tới phong trào chung, còn tuỳ thuộc vào nhiệt tình, khả năng
tổ chức lãnh đạo của một số cá nhân, đóng vai trò chủ chốt, chứ chưa
có một cơ chế nào bảo đảm sự bền vững lâu dài. Trong thời kỳ kháng chiến con
cháu tản mác, nhiều họ bị phế khoáng không còn cơ sở vật chất để chăm
lo từ đường hương hoả. Từ sau hoà bình, thống nhất đất nước, một số
họ được khôi phục nhưng vì " Duy ý chí ", nên phong trào loé lên một
thời gian ngắn rồi lụi dần. Không còn ruộng hương hoả của tổ tiên để
lại thì con cháu đóng góp tiền gửi vào quỹ tích kiệm để lẫy lai hàng
năm mà lo hương khói. Nhưng rồi do trượt giá, một vài yếu tố khách
quan nữa tác động, hương khói cũng nguôi dần. Đó là nỗi lòng trăn trở
nhất của những con cháu muốn kế tục sự nghiệp cha ông, muốn làm cho
anh linh tổ tiên, cha ông, muốn cho dòng họ ngày càng thành đạt.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (XemTuong.net)