Chợ Tết Trong chợ Tết, người ta mới bày bán
những thứ mà quanh năm không thấy bán. Ví dụ như lá dong, lá chuối để
gói bánh chưng, củ kiệu, đu đủ làm dưa. Người ta bán những chiếc tháp
làm bằng bánh in bao giấy màu, những chiếc bánh ly bằng bột nếp hoặc
bánh ngũ sắc dùng để chưng lên bàn thờ. Chợ còn bán những thứ không ăn
được, nhưng vô cùng cần thiết cho ngày Tết như phong bao lì xì, giấy dán
và bây giờ phong trào viết chữ ngày Tết đang phục hồi trở lại. Nhưng
cái thú mua sắm trong ngày Tết vẫn là chuyện đương nhiên, gần như không
một nhà nào lại không “đi sắm Tết”.
Dẫu rằng cách ăn, cách chơi Tết trải qua bao năm đã thay đổi cho phù hợp
với cuộc sống. Điều độc đáo ở chỗ là dù nhà giàu hay nghèo, nhu cầu
mua sắm ngày Tết là điều không thế thiếu. Cây nêu ngày Tết Vào buổi tối, người ta treo một chiếc
đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào
đêm trừ tịch còn cho đốt pháo ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi
ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23
tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm
Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy
nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây
nêu được hạ xuống. Câu đối tết Ngoài hai loại hoa đặc
trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa
để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ, cúc,
lay ơn, hoa huệ…; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như hoa hồng, hoa
thuỷ tiên, hoa lan, hoa thược dược, hoa violet…Còn cây quất thường được
trang trí tại phòng khách, cây quất với lộc xanh mơn mởn, hoa trắng lốm
đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng trưng cho sự sinh sôi,
thịnh vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả. Màu của ngày Tết Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết. Lễ tổ tiên ngày tết Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền,
bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai
cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát
hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy,
với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá
ngọc” (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn
bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc
trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương
là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự
biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó),
phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây
mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn
linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới…
Trước bàn thờ nghi lễ truyền thống, ăn mặc lễ phục chỉnh tề, cử chỉ
nghiêm trang, dọn lòng trong sạch hướng tâm linh cúng lạy, nguyện sống
xứng đáng với ”bề trên”. Sự tín ngưỡng ấy đã góp phần tạo thêm giá trị
nhân văn, đạo đức truyền thống, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc. Sự
thờ cúng tổ tiên mách bảo con cháu giữ gìn đạo lý, nề nếp gia phong,
sống tình nghĩa thủy chung, tu thân, hướng thiện. Thực tâm cầu thị, yêu
đồng loại, sâu nặng cội nguồn… Dọn
cúng mâm cao cỗ đầy. Tề tựu đông đủ. Với các món nấu nướng gia truyền,
dâng cúng là những sản phẩm nông nghiệp. Hoa tươi, rượu nếp gạo nấu tinh
khiết. Bánh trái, ngũ cốc, thịt gà, heo… Nấu nướng thơm ngon đặt lên
cúng trên bàn thờ. Để ông bà yên lòng nhìn thấy các cháu con biết giữ
gìn truyền thống ”dĩ nông vi bản” và đem sức lao động cần cù làm ra
thành quả từ lòng đất quê hương của ông cha để lại. Đây chính là nét văn
hóa truyền thống góp phần bảo tồn di sản tinh thần và đạo đức trong đời
sống con người lưu truyền tự ngàn xưa.
Xuất hành và hái lộc ngày Tết : “Xuất hành” là đi ra khỏi nhà trong
ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất
hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp
được các quý thần, tài thần, hỉ thần… Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau
khi lễ bái, người Việt còn có tục bẻ lấy một “cành lộc” để mang về nhà
lấy may, lấy phước. Đó là tục “hái lộc”. Cành lộc là một cành đa nhỏ hay
cành đề, cành si… là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục
hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban
cho nhân năm mới. Cành lộc thường đem về cắm ở bàn thờ. Khác với miền
Bắc, miền Trung không có tục hái lộc đầu năm nhờ thế mà cây cối trong
các đền chùa ở miền Trung vẫn giữ nguyên lá xanh biếc suốt cả mùa xuân. Để gắn kết tình cảm gia đình, họ hàng ,
làng xóm những lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, gặp
nhiều may mắn, mọi ước muốn đều thành công…; những người năm cũ gặp rủi
ro thì động viên nhau “tai qua nạn khỏi” hay “của đi thay người” nghĩa
là trong cái họa cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.
Chúc Tết: Sáng mồng Một Tết còn gọi là ngày Chính đán, con cháu tụ họp ở
nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên và chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng.
Theo quan niệm, cứ năm mới tới, mỗi người tăng lên một tuổị, bởi vậy
ngày mồng Một Tết là ngày con cháu “chúc thọ” ông bà và các bậc cao niên
(ngày xưa, các cụ thường không nhớ rõ ngày tháng sinh nên chỉ biết Tết
đến là thêm 1 tuổi). Tín ngưỡng Tết Đầu năm thường gắn với việc cầu xin những
điềm lành, việc lành trong ao ước của con người qua những cuộc hành
hương về nơi linh thiêng nhất. Xin chữ là một trong những hoạt động tâm
linh ấy. Việc mang ý nghĩa này có ở
nhiều nơi trên khắp mọi miền đất nước. Từ Bắc chí Nam, từ xuôi lên
ngược, chẳng phân biệt giàu nghèo, sang hèn… ta thường bắt gặp những
gương mặt giống nhau ở sự thành tâm của người xin chữ trước người cho
chữ. Ngày xưa là chữ Nho, ngày nay vẫn là chữ Nho, lại có thêm cả chữ Ta
nữa. Các thầy đồ Hán học và Quốc ngữ
học tha hồ thả hồn theo nét bút mà tặng lại cho người xin cái tâm, cái
tài của mình được gửi qua nét chữ và nội dung của chữ theo ước nguyện
của người xin. Chưa có ai bán chữ, chỉ có người mua giấy để xin chữ.
Người cho chữ vẫn có lộc nhưng tinh tế hơn. Việc tưởng như không bình
thường nhưng lại thể hiện được nét thanh tao của công việc. Các thầy đồ
không phải bận bịu và hệ lụy vào chuyện giá cả, tiền nong để đủ thanh
thản và toàn tâm trong công việc cho chữ mang vẻ thánh thiện này.
Việc xin chữ đầu năm lâu nay đã có và ngày một thịnh hành, nó đang trở
thành phong tục đẹp của người Việt Nam mỗi độ xuân về Tết đến. Tại Hà
Nội, việc này diễn ra ở nhiều nơi: trong nhà riêng của một số thầy đồ có
tiếng văn hay chữ tốt, trên đường phố nơi có khoảng hè rộng rãi và
nhiều người qua lại. Chỗ có vẻ ấn tượng nhất là trước sân Miếu Văn,
khoảng hè phố đường Bà Triệu, đoạn giao cắt với đường Trần Hưng Đạo… Xin
chữ là một nét đẹp văn hóa cần phát huy. .Chỉ một chữ treo trước mặt mà
có ý nghĩa về đạo đức và đời sống đối với những con người cụ thể sẽ giá
trị hơn nhiều những lời nói sáo rỗng.
Chợ Tết có không khí khác hẳn với những
phiên chợ thường ngày trong năm. Mua sắm chuẩn bị cho ba ngày Tết thường
không phải để “có cái ăn” mà đó là thói quen, là dậy lên không khí ngày
lễ hội. Chợ Tết được bố trí ở những bãi đất rộng, có thể chợ được thành
lập ngay nơi chợ thường ngày vẫn diễn ra chuyện bán mua. Nhưng trong
chợ Tết, gần như tất cả “món ngon vật lạ” đều được bày bán. Không khí
Tết thấm đượm thật sự vào những ngày này bởi cảnh người mua hàng nặng
trĩu giỏ.
Cây nêu là một cây tre cao khoảng
5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng điạ phương) như
vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm, hình cá
chép bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải
tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc
khánh nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau
tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai… Người ta tin rằng
những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh
đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không
được tới quấy nhiễu…
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho
tới những người bình dân “tồn cổ” vẫn còn trọng tục treo “câu đối đỏ”
nhân ngày Tết. Những câu đối này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay
vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên thường được gọi chung
là câu đối đỏ.
Hoa tết
Miền Bắc thường
chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà,
theo quan niệm, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng
sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân.
Miền Trung và miền Nam lại hay dùng cành
mai vàng hoặc cây mai vàng hơn, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng
vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến).
Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành, theo quan điểm người Việt, Thổ
nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển
nòi giống.
Màu chủ lực trong ngày Tết là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát
tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ,
phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển
lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng,
mãn đình hồng, hoa đào v.v… Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt,
đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ
giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết “mồng”
mới thôi!
Người Việt Nam có tục hằng năm
mỗi khi Tết đến lại trở về sum họp dưới mái ấm gia đình. Nhiều người
muốn được khấn vái trước bàn thờ, thăm lại ngôi mộ hay nhà thờ tổ tiên.
Nhiều người cũng muốn thăm lại nơi họ đã từng sinh sống với gia đình
trong thời niên thiếu. Đối với nhiều người xuất thân từ nông thôn Việt
Nam, kỷ niệm thời niên thiếu có thể gắn liền với giếng nước, mảnh sân
nhà. “Về quê ăn Tết” đã trở thành thành ngữ chỉ cuộc hành hương về nơi
cội nguồn.
Lì xì ngày Tết (利是, phát âm theo người Quảng
Đông: lishi): người lớn thường tặng trẻ em tiền bỏ trong một bao giấy
đỏ, hay “hồng bao”, gọi là “lì xì” với những lời chúc mừng ăn no, chóng
lớn. Theo cổ tích Trung Quốc thì trong “hồng bao” có 8 đồng tiền (là Bát
Tiên hoá thân) được đặt dưới gối đứa trẻ để xua đuổi quỷ đến quấy
nhiễu.
Nguồn tin: Trung tâm Văn hóa Phật giáo Việt Nam Franken - Chùa Vĩnh Nghiêm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (XemTuong.net)